A.
VĂN HỌC SỬ:
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8-1945 ĐẾN HẾT THẾ KỈ XX
I
– Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975:
1-Vài
nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá :
- Đường lối văn nghệ của Đảng góp phần tạo nên một nền
văn học thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, về tổ chức và quan niệm nhà văn
kiểu mới.
- Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ
kéo dài suốt 30 năm.
- Nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn và chậm phát triển.
Giao lưu văn hoá chủ yếu giới hạn trong các nước XHCN.
2-
Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu:
a) Chặng đường từ 1945 đến 1954:
-
Một số tác phẩm trong hai năm 1945-1946 phản ánh được không khí hồ hởi, vui
sướng đặc biệt của nhân dân ta khi đất nước giành được độc lập.
-
Từ cuối 1946 đến 1954 văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp.
+ Truyện ngắn và kí sớm đạt được thành tựu: Một lần tới Thủ đô, Trận phố
Ràng (Trần Đăng), Đôi mắt, Ở rừng (Nam Cao); Làng (Kim Lân); Thư nhà (Hồ
Phương),…
-Từ
năm 1950, xuất hiện những tập truyện, kí khá dày dặn: Vùng mỏ (Võ Huy Tâm);
Xung kích (Nguyễn Đình Thi); Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc),…
+
Thơ ca đạt nhiều thành tựu xuất sắc: Cảnh khuya, Cảnh rừng Việt Bắc, Rằm tháng
giêng,..( Hồ Chí Minh), Bên kia sông Đuống ( Hoàng Cầm), Tây Tiến (Quang
Dũng),..Đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
+
Một số vở kịch ra đời phản ánh kịp thời hiện thực cách mạng và kháng chiến.
b) Chặng đường từ 1955 đến 1964:
-
Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát khá nhiều vấn đề, nhiều phạm vi của hiện thực
đời sống:
+
Cuộc kháng chiến chống Pháp
+
Hiện thực đời sống trước CM
+
Công cuộc xây dựng CNXH
-
Thơ ca phát triển mạnh mẽ, nhiều tập thơ xuất sắc ra đời
-
Kịch nói có bước phát triển mới
c) Chặng đường từ 1965 đến 1975:
-
Chủ đề bao trùm của văn học là đề cao tinh thần yêu nước, ngợi ca chủ nghĩa anh
hùng cách mạng.
-
Văn xuôi : phản ánh cuộc sống chiến đấu và lao động, khắc hoạ thành công hình
ảnh con người Việt Nam
anh dũng, kiên cường và bất khuất :
-
Thơ đạt được bước tiến mới trong mở rộng, đào sâu chất liệu hiện thực đồng thời
tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng và chính luận. Đặc biệt là sự xuất
hiện đông đảo và những đóng góp đặc sắc của thế hệ các nhà thơ trẻ.
-
Kịch nói có những thành tựu mới, gây được tiếng vang
d) Văn học vùng địch tạm chiếm
(1946-1975): Xu hướng văn học tiến bộ, yêu nước và cách mạng có những đóng góp
đáng ghi nhận trên cả hai bình diện chính trị-xã hội và văn học.
3 - Những đặc điểm cơ bản của văn
học Việt Nam
từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1975:
a) Nền văn học chủ yếu vận động
theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước.
Văn học Việt Nam
1945-1975 như một tấm gương phản chiếu những vấn đề lớn lao, trọng đại nhất của
đất nước và cách mạng: đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng CNXH.
b) Nền văn học hướng về đại chúng.
-
Nhận thức mới về quần chúng nhân dân.
-
Hướng về đại chúng, TP văn học thường ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề rõ
ràng, sử dụng những hình thức nghệ thuật quen thuộc với nhân dân, ngôn ngữ bình
dị, trong sáng, dễ hiểu.
c) Nền văn học chủ yếu mang khuynh
hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn.
+
Khuynh hướng sử thi thể hiện:
*
Đề tài : những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân tộc
*
Nhân vật chính : những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất
và ý chí của dân tộc; gắn bó số phận cá nhân với số phận đất nước; luôn đặt bổn
phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ý thức chính trị, tình cảm lớn, lẽ sống
lớn lên hàng đầu
*
Lời văn : ngợi ca, trang trọng và lấp lánh vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng.
+
Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng khẳng định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng
tới lí tưởng (ở thời kì này là ngợi ca cuộc sống mới, con người mới, ca ngợi
chủ nghĩa anh hùng CM và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
+ Khuynh hướng sử thi
kết hợp với cảm hứng lãng mạn làm cho văn học thấm nhuần tinh thần lạc quan,
đồng thời đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận
động và phát triển cách mạng.
II – Vài nét khái quát văn học
Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1975 đến hết thế kỉ XX:
1
- Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá :
- Với chiến thắng năm 1975, lịch sử dân tôc ta mở ra
một thời kì mới - thời kì độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Tuy nhiên từ
1975 đến 1985 đất nước ta lại gặp phải những khó khăn và thử thách mới.
- Từ năm 1986, Đảng ta đề xướng và lãnh đạo công
cuộc đổi mới toàn diện. Tiếp xúc và giao lưu văn hoá được mở rộng. Sự nghiệp
đổi mới thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi mới để phù hợp với nguyện vọng của
nhà văn và người đọc cũng như quy luật phát triển khách quan của văn học.
2 - Những chuyển biến và một
số thành tựu ban đầu:
- Từ sau 1975 :
+ Thơ không tạo được sự lôi cuốn , hấp dẫn như các
giai đoạn trước nhưng vẫn có những tác phẩm được bạn đọc chú ý.
+ Văn xuôi có nhiều khởi sắc, bộc lộ ý thức đổi mới
cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời sống.
- Từ năm 1986
: văn học chính thức bước vào chặng đường đổi mới, gắn bó, cập nhật hơn đối với
những vấn đề của đời sống hằng ngày. Nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn
- Từ sau năm 1975, kịch nói phát triển mạnh mẽ. Các
vở Hồn Trương Ba da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) và Mùa hè ở biển (Xuân Trình),…tạo
được sự chú ý
* Một số phương diện đổi mới trong văn học:
- Văn học đổi mới vận động theo khuynh hướng dân chủ
hoá, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc.
-Văn học phát triển đa dạng hơn về đề tài, chủ đề;
phong phú và mới mẻ hơn về thủ pháp nghệ thuật
- Đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mơi cách
nhìn nhận, cách tiếp cân con người và hiện thực đời sống, đã khám phá con người
trong những mối quan hệ đa dạng và phức tạp, thể hiện con người ở nhiều phương
diện của đời sống, kẻ cả đời sống tâm linh.
Nhìn tổng
thể cái mới của văn học giai đoạn này là tính chất hướng nội, quan tâm nhiều
hơn tơi số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường.
Bên cạnh những thành tựu, quá
trình đổi mới văn học cũng xuất hiện những khuynh hướng tiêu cực, những biểu
hiện quá đà, thiếu lành mạnh
III
- Kết luận:
- Văn học VIỆT NAM từ 1945 đến 1975 đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ những
truyền thống tư tưởng lớn của văn học dân tộc, và đạt được nhiều thành tựu nghê
thuật ở nhiều thể loại, tiêu biểu nhất là thơ và truyện ngắn.
- Từ năm 1986, văn học đổi mới mạnh mẽ phù hợp với nguyện vọng của nhà
văn và người đọc, phù hợp với quy luật khách quan của văn học và gặt hái được
những thành tựu bước đầu.
B.
TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH THỂ LOẠI VĂN CHÍNH LUẬN:
1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
(Hồ Chí Minh)
PHẦN 1 : TÁC
GIẢ
I.Vài nét về
tiểu sử:(SGK)
II. Sự nghiệp văn học :
1. Quan điểm sáng tác:
- Xem văn nghệ là hoạt động tinh thần phong phú phục
vụ hiệu quả cho hoạt động CM. Nhà văn cũng phải có tinh thần xung phong như
những người chiến sĩ ngoài mặt trận. Æ Tính chiến đấu của văn học
- Văn chương phải có tính chân thật, hình thức nghệ
thuật của tác phẩm phải có sự chọn lọc, sáng tạo, ngôn ngữ trong sáng tránh lối
viết xa lạ, cầu kì, phát huy cốt cách dân tộc, giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt. Æ Tính chân thật và tính dân
tộc của văn học:
- Nội dung và hình thức tác phẩm phải xuất phát từ mục
đích, đối tượng tiếp nhận : “Viết cho ai?”(đối tượng), “Viết để làm gì?” (mục
đích), “Viết cái gì?” (nội dung), “Viết như thế nào?” (hình thức). Æ Tính
mục đích của văn chương
2.
Di sản văn học.
a.
Văn chính luận.
-
Mục đích : đấu tranh chính trị, tiến
công trực diện kẻ thù, giác ngộ quần chúng, thể hiện nhiệm vụ cách mạng qua
từng chặng đường lịch sử.
- Nghệ thuật
: là những áng văn chính lận mẫu mực, thể hiện lí trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo,
tấm lòng yêu ghét nồng nàn, sâu sắc, tầm hiểu biết sâu rộng về văn hóa, về thực
tiễn cuộc sống.
- Tác phẩm tiêu
biểu: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến…
b.
Truyện và kí:
- Viết từ những năm 20 của thế kỉ XX (1920-1925)
- Nội dung : tố cáo, châm biếm, đả kích thực
dân và phong kiến ở các nước thuộc địa,
bộc lộ lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự hào về truyền thống bất khuất của
dân tộc.
- Nghệ thuật : cô đọng, cốt truyện sáng tạo,
kết cấu độc đáo, ý tưởng thâm thúy, lạc quan, phong cách hiện đại, thể hiện vẻ
đẹp trí tuệ sắc sảo với trí tưởng tượng phong phú, vốn văn hoá sâu rộng và tính
thực tiễn.
- Tác phẩm tiêu
biểu : Con người biết mùi hun
khói, Vi hành, Những trò lố hay là Va – ren và Phan Bội Châu(1925), Nhật kí chìm tàu (1931), Vừa đi đường vừa kể
truyện (1963)…
c.
Thơ ca: phong phú, nhiều thể loại
- Nhật kí trong tù.
+ Tác phẩm ghi lại một cách chân thực chế độ nhà tù Trung Quốc thời
Tưởng Giới Thạch Æ giá trị phê
phán.
+ Phản ánh bức chân dung tự họa của Hồ Chí Minh : nghị lực phi thường,
tâm hồn khát khao tự do, hướng về Tổ quốc, nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên,
trái tim mênh mông với mọi kiếp người.
+
Nghệ thuật : sâu sắc về tư
tưởng, đa dạng và linh hoạt về bút pháp nghệ thuật, kết tinh giá
trị tư tưởng và nghệ thuật thơ ca Hồ Chí Minh.
-
Ngoài NKTT, còn phải kể đến một số chùm thơ người làm ở Việt Bắc trong những
năm kháng chiến. Thơ HCM (86 bài
– Tiếng Việt), Thơ chữ Hán (36 bài ) Æ phong thái ung dung, hoà hợp với thiên nhiên, thể hiện
bản lĩnh của người cách mạng.
3.
Phong cách nghệ thuật: Phong cách
nghệ thuật của Hồ Chí Minh độc đáo mà đa dạng.
- Văn chính luận: Ngắn gọn, súc tích, lập luận
chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa
dạng về bút pháp, giàu hình ảnh, giọng điệu đa dang.
- Tryện và kí:
Thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén. Tiếng cười
trào phúng nhẹ nhàng mà thâm thuý sâu cay. Thể hiện chất trí tuệ sắc sảo và
hiện đại.
- Thơ ca:
Phong cách hết sức đa dạng, hàm súc, uyên thâm, đạt chuẩn mực về nghệ thuật, sử
dụng thành công nhiều thể loại thơ . Có loại thơ tuyên truyền cổ động lời lẽ
mộc mạc giản dị, có loại thơ hàm súc uyên thâm kết hợp giữa màu sắc cổ điện và
bút pháp hiện đại.
PHẦN
2 : TÁC PHẨM
I. Giới thiệu
:
1. Hoàn cảnh sáng tác : Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Phát xít
Nhật, kẻ đang chiếm đóng nước ta lúc bấy giờ, đã đầu hàng Đồng minh. Trên toàn
quốc, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền. Ngày 26-08-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang,
Người soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người
thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam mới.
2. Đối tượng và mục đích của TNĐL.
*
Đối tượng.
- Đồng bào cả nước và nhân dân thế giới.
- Đế quốc Anh, Pháp, Mĩ.
*
Mục đích.
- Tuyên bố và khẳng định quyền độc lập, tự do của dân
tộc VN,
- Bác bỏ luận điệu của bọn xâm lược trước dư luận thế
giới, đồng thời khẳng định ý` chí bảo vệ độc lập dân tộc.
3
Bố cục:
+
Đoạn 1: (từ đầu đến không ai có thể chối
cãi được): Nêu nguyên lí chung của Tuyên ngôn độc lập.
+ Đoạn 2:
(Từ “Thế mà” đến “phải được độc lập”): Tố cáo tội ác của
thực dân Pháp và khẳng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã kiên trì đấu
tranh và nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước VNDCCH.
+
Đoạn 3 (Còn lại) : Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc
lập, tự do của dân tộc.
II
- Nội dung đọc hiểu :
1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn :
- Trích dẫn 2
bản tuyên ngôn của Mĩ ( 1776) và
Pháp (1791) : khẳng định Nhân
quyền và Dân quyền của con người.
Æ Đề cao giá trị tư tưởng nhân đạo, tiến bộ của nhân
dân Mĩ và Pháp, cũng là của văn minh nhân loại.
Æ Làm cơ sở pháp
lí cho bản tuyên ngôn.
- Từ quyền bình
đẳng và tự do của con người, tác giả suy rộng ra: “Tất cả dân tộc trên thế giới
sinh ra đều có quyền bình đẳng” → Khẳng
định quyền độc lập dân tộc của VN.
Æ mở đầu sâu sắc, hùng hồn nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, đồng thời
ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp; ngăn chặn âm mưu can
thiệp của đế quốc Mĩ và nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên.
2/
Cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn :
a / Vạch
trần bộ mặt tàn bạo , xảo quyệt của Pháp :
- Lợi dụng lá cờ “bình đẳng
, bác ái ” để cướp nước ta, bóc lột ta về mọi mặt : chính trị, kinh tế, văn
hóa, giáo dục, ngoại giao.
→ Giọng văn vừa hùng hồn ,
đanh thép , dẫn chứng cụ thể, liên tiếp tố cáo tội ác của Pháp.
b/ Thông điệp mà bản Tuyên ngôn độc lập
hướng tới :
- Tuyên bố thoát li hẳn quan
hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết mọi hiệp ước, đặc quyền của thực dân Pháp về
VN.
- Kêu gọi toàn dân VN đoàn
kết chống lại âm mưu xâm lược của thực dân Pháp.
- Kêu gọi cộng đồng quốc tế
công nhận quyền độc lập tự do của VN.
3.
Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc
- Tuyên bố nhân dân VN quyết
tâm giữ vững nền độc lập của dân tộc.
- Khẳng định VN có quyền và
đủ tư cách hưởng độc lập , tự do.
Æ Áng văn chính luận mẫu mực:
lập luận chặt chẽ, luận điểm xác đáng, giàu sức thuyết phục, ngôn từ trong
sáng, hùng hồn, đanh thép.
2. NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU NGÔI SAO SÁNG
TRONG VĂN NGHỆ CỦA DÂN TỘC
(Phạm Văn Đồng)
I.Tìm hiểu chung
1.
Tác giả :
- Phạm Văn Đồng
(1906-2000), quê quán ở Quảng Ngãi, là nhà cách mạng, nhà chính trị, nhà ngoại
giao lỗi lạc của cách mạng VN thế kỉ XX.
- Phạm Văn Đồng còn là nhà giáo dục, nhà lí luận văn
hoá văn nghệ lớn.
2.
Văn bản
a)
Hoàn cảnh, mục đích sáng tác
- Sáng tác tháng 07/1963 nhân kỉ niệm 75 năm ngày
mất Nguyễn Đình Chiểu.
- Để tưởng nhớ Nguyễn Đình Chiểu; định hướng, điều
chỉnh cách nhìn nhận, đánh giá về Nguyễn Đình Chiểu và thơ văn của ông; khơi
dậy tinh thần yêu nước trong thời đại chống Mĩ cứu nước.
b) Thể loại:
- Văn bản nghị luận về một
vấn đề văn học....
- Yêu cầu thể loại: Bố cục rõ ràng,
mạch lạc; Tính lí trí cao, lập luận chặt
chẽ, khoa học, lôgic.; Lí lẽ sắc bén, dẫn chứng xác thực có sức thuyết phục; Có
thể sử dụng yếu tố biểu cảm.
c)Bố cục
*
Bố cục
- Nêu vấn đề:
Từ đầu đến “đặt chân lên đất nước ta”:
Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn của dân tộc cần phải được nghiên cứu, tìm hiểu
và đề cao hơn nữa.
- Giải quyết
vấn đề: Tiếp theo đến “còn vì văn hay
của Lục Vân Tiên”
+ Luận điểm 1: Nguyễn Đình Chiểu - nhà thơ yêu nước
+ Luận điểm 2: Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu - tấm gương phản chiếu
phong trào chống Pháp oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ.
+ Luận điểm 3:
Lục Vân Tiên, tác phẩm lớn nhất của
Nguyễn Đình Chiểu, có ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian, nhất là ở miền Nam
- Kết thúc vấn
đề: Còn lại: Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu - tấm gương sáng của mọi thời đại.
* Nhận xét kết cấu của văn bản
- Không kết cấu theo trình tự thời gian
- Lí giải: do mục đích sáng tác.
II. Đọc hiểu văn bản
1.
Nêu vấn đề
- Đánh giá so sánh Nguyễn Đình Chiểu là:
+ Ngôi sao có
ánh sáng khác thường: ánh
sáng đẹp nhưng chưa quen nhìn nên khó thấy
+ Phải chăm chú nhìn mới
thấy và càng nhìn càng thấy sáng: phải
dày công nghiên cứu thì mới thấy.
Luận đề: Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ
yêu nước mà các tác phẩm của ông là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu
oanh liệt của nhân dân ta, một tác giả cần được nghiên cứu đề cao hơn nữa.
ÆTác giả đã vào đề một cách
trực tiếp, thẳng thắn, độc đáo: nêu vấn đề một cách trực tiếp và lí giải
nguyên nhân với cách so sánh cụ thể, giàu tính hình tượng. Đó cũng là cách đặt vấn đề khoa học, sâu sắc
vừa khẳng định được vị trí của Nguyễn
Đình Chiểu vừa định hướng tìm hiểu thơ
văn Nguyễn Đình Chiểu .
2.
Giải quyết vấn đề:
a. Luận điểm 1: Cuộc đời, con người và quan niệm
sáng tác thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
- Hoàn cảnh sống: nước mất nhà tan, mang thân phận đặc biệt: mù cả hai mắt.
- Con người: nhà nho yêu nước, vì mù mắt nên hoạt động
chủ yếu bằng thơ văn; nêu cao tấm
gương anh dũng, khí tiết, sáng
chói về tinh thần yêu nước và căm thù giặc sâu sắc.
- Quan niệm sáng tác: dùng văn chương làm vũ khí chiến
đấu, ca ngợi đạo đức, chính nghĩa.
Æ Quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn thống nhất với quan niệm về lẽ làm
người.
b. Luận điểm 2: Thơ văn yêu nước
của Nguyễn Đình Chiểu.
- Tái hiện một thời đau thương, khổ nhục mà vĩ đại của
đất nước, nhân dân. Æ thơ văn NĐC đã bám sát đời sống lịch sử đấu tranh của
nhân dân Nam Bộ, có hơi thở nóng bỏng của tình cảm yêu nước thuơng nòi. Đó cũng
là cách khẳng định NĐC xứng đáng là một ngôi sao sáng .
- Thơ văn yêu nước của
Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung với
nước, than khóc cho những người đã trọn nghĩa với dân.
Luận chứng: VTNSCG là một đóng góp lớn
+ Khúc ca của người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên
ngang
+ Lần đầu tiên, người nông dân di vào văn học viết, là
hình tượng nghệ thuật trung tâm.
- Thơ văn yêu nước của
Nguyễn Đình Chiểu không chỉ có sức nặng đấu tranh mà còn đẹp ở hình
thức, có những đóa hoa, hòn ngọc rất đẹp...
ÆVăn chương NĐC tham gia
tích cực vào cuộc đấu tranh của thời đại, có sức cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc chiến
đấu chống thực dân.
c) Luận điểm 3 :Truyện Lục Vân Tiên.
- Là “một
bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi
những người trung nghĩa.
- Không phủ
nhận những hạn chế của tác phẩm: giá trị luận lí mà NĐC ca ngợi, ở
thời đại chúng ta, theo quan điểm chúng ta thì có phần đã lỗi thời”, hay văn
chương của LVT “có những chỗ lời văn không hay lắm”.
- Khẳng định tư tưởng, thế
giới nhân vật, về nghệ thuật trong truyện LVT có những điểm mạnh và giá trị
riêng: tư tưởng nhân-nghĩa-trí-dũng; nhân vật gần gũi với nhân dân, từ nhân dân
mà ra: dũng cảm, đấu tranh không khoan nhượng cho chính nghĩa; nghệ thuật kể
truyện nôm dễ hiểu dễ nhớ, dễ truyền bá dân gian, thậm chí có cả những lời thơ
hay.
Æ cách lập
luận đòn bẩy, bắt đầu lập luận là một sự hạ xuống, nhưng đó là sự hạ xuống để
nâng lên; xem xét LVT trong mối quan hệ mật thiết với đời sống của nhân dân.
3.
Kết thúc vấn đề:
- Khẳng định
vị trí của NĐC trong lịch sử VH, trong đời sống tâm hồn dân tộc và trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ
- Tỏ niềm tiếc thương
thành kính.
Vừa có tác dụng khắc
sâu, vừa có thể đi vào lòng người
niềm xúc cảm thiết tha.
III.
Kết luận:
1. Nghệ thuật :
- Kết hợp hài hòa giữa lí
lẽ xác đáng và tình cảm chân thành; lập luận chặt chẽ, khoa học, luận cứ và
luận chứng xác đáng. Bố cục mạch lạc, ngôn ngữ trong sáng, rõ ràng.
2. Nội
dung
- Đánh giá đúng đắn và khoa
học về tác gia văn học Nguyễn Đình Chiểu trong văn học yêu nước của dân tộc.
- Bày tỏ được thái độ trân
trọng và cảm phục của tác giả đối với tâm gương sáng nhà văn –chiến sĩ Nguyễn
Đình Chiểu.
- Khơi dậy sức mạnh của văn
nghệ và tinh thần yêu nước và đấu tranh chống đế quốc, bảo vệ độc lập dân tộc
3. THÔNG ĐIỆP NHÂN NGÀY THẾ GIỚI
PHÒNG CHỐNG AIDS 1-12-2003
( Cô-phi-An-nan)
I. Giới thiệu
1. Tác giả
- Cô-phi-An-nan (1938) tại Gana ( Châu Phi), bắt đầu
làm việc tại tổ chức Liên hợp quốc từ năm 1962, 1996 là phó tổng thư kí Liên
hợp quốc, 1/1997-1/2007 ông trở thành người thứ bảy và là người Châu Phi da đen
đầu tiên giữ chức vụ tổng thư kí Liên hợp quốc.
-
Năm 2001 tổ chức Liên hợp quốc và cá nhân Cô-phi-An-nan được trao giải Nôben
Hoà bình. Ông cũng được trao nhiều giải thưởng danh dự khác ở châu Âu, Á, Phi…
2. Hoàn cảnh sáng tác
-
Năm 2001 Cô-phi-An-nan ra lời kêu gọi thế giới đấu tranh phòng chống HIV, kêu
gọi thành lập quỹ sức khoẻ và AIDS toàn cầu.
-
Thông điệp này được Cô-phi-An-nan viết gửi nhân dân thế giới nhân ngày thế giới
phòng chống AIDS, 1/12/2003.
II. Tìm hiểu văn bản
1. Tình hình phòng chống HIV trên thế
giới.
a. Những vấn đề đã đạt được.
-
Ngân sách phòng chống HIV tăng.
-
Quỹ toàn cầu phòng chống lao, sốt rét được thông qua.
-
Các nước đã xây dựng kế hoạch phòng chống HIV.
-
Các công ty đã áp dụng chính sách phòng chống HIV nơi làm việc, nhiều nhóm từ
thiện và cộng đồng phối hợp với chính phủ và tổ chức khác phòng chống HIV.
b.Những vấn đề chưa đạt được.
- HIV vẫn gây tỉ lệ tử vong cao, ít có
dấu hiệu suy giảm (1 phút có 10 người bị
nhiễm HIV, HIV đang lây lan ở mức báo động đối với phụ nữ, phụ nữ đã chiếm một
nửa số người bị nhiễm, bệnh dịch này lan rộng ở những nơi trước đây được coi là
an toàn: châu Á, Đông Âu, Uran đến Thái Bình Dương), điều này dẫn đến dân
số có nguy cơ giảm, ảnh hưởng đến lực lượng lao động toàn cầu.
- Chúng ta chưa đạt được chỉ tiêu đề
ra trong năm 2005: chưa giảm được số thanh niên, trẻ sơ sinh nhiễm HIV, chưa
triển khai chương trình chăm sóc toàn diện trên thế giới.
2. Các biện pháp cần thực hiện để đẩy
lùi HIV.
- Cần có nguồn lực và hành động cần
thiết “ chúng ta cần phải nổ lực nhiều
hơn nữa để thực hiện cam kết của mình bằng những nguồn lực và hành động cần
thiết”.
- Đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu
và sẵn sàng đối mặt với nó “chúng ta phải
đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và
hành động thực tế của mình. Đó là lí do chúng ta phải công khai lên tiếng về
AIDS”.
- Không có thái độ kì thị, phân biệt
đối xử với người bị nhiễm HIV “ chúng ta
sẽ không hoàn thành các mục tiêu đề ra thậm chí chúng ta còn bị chậm hơn nữa
nếu sự kì thị và phân biệt đối xử vẫn tiếp tục diễn ra đối với những người bị
HIV/AIDS. Hãy đừng để một ai có ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính
mình bằng cách dựng lên các bức rào ngăn cách giữa “ chúng ta” và “họ”.
- Mọi người cùng chung tay để chống lại
căn bệnh của thế kỉ “Hãy sát cánh cùng
tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn”.
III. Tổng kết
1. Nghệ thuật
-
Tác giả sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, thuyết phục:
+ Mở đầu nêu luận điểm xuất phát “ngày hôm nay chúng ta đã cam kết và các
nguồn lực đã được tăng lên. Song những hành động của ta vẫn còn quá ít so với
yêu cầu thực tế”.
+ Sau đó đi vào từng luậm điểm : luận
điểm 1, tác giả nêu lên những gì thế giới đã làm được để phòng chống HIV thời
gian qua, tác giả đưa ra những luận cứ, những dẫn chứng xác thực, dẫn chứng
được đưa theo phương diện từ rộng đến hẹp ( ngân sách phòng chống HIV trên thế
giới, quốc gia, công ty….). Luận điểm 2, tác giả nêu lên những gì thế giới chưa
làm được trong phòng chống HIV, đưa ra những số liệu chính xác, thuyết phục (
trong năm qua mỗi phút đồng hồ …. Thái Bình Dương).
+ Sử dụng lập luận phản đề ( lẽ ra…lẽ
ra…và lẽ ra…) làm cơ sở để đưa ra kiến
nghị của mình.
+ Để tăng tính thuyết phục bài viết sử
dụng câu văn dài ngắn khác nhau, sử dụng nhiều câu khẳng định, mệnh lệnh (
chúng ta đã… chúng ta hãy….chúng ta không thể…hãy cùng tôi….) và cũng để tạo
nên giọng điệu hùng hồn cho bài viết.
- Câu văn chứa đựng nhiều yếu tố biểu
cảm nhất là đoạn “Đó là lí do chúng ta
phải công khai lên tiếng → hết”, nhờ yếu tố biểu cảm đó giúp bài văn không
khô khan mà dễ thuyết phục và thúc giục mọi người hành động phòng chống HIV.
- Ngôn ngữ hàm súc,chọn lọc, bài viết
ngắn gọn, súc tích, cô đọng.
2.
Nội dung
Trước hiểm hoạ của căn bệnh thế kỉ, HIV
đang cướp đi sức khoẻ, sinh mạng của nhân loại, với vai trò là tổng thư kí Liên
hợp quốc, Cô-phi-An-nan đã ra lời kêu gọi nhân dân thế giới hãy chung tay đẩy
lùi đại dịch này. Đó không chỉ là nhiệm vụ của một cá nhân, một tổ chức nào mà
là nhiệm vụ chung của tất cả chúng ta.
C.
MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH THỂ LOẠI THƠ:
1. TÂY TIẾN
(Quang
Dũng)
I. Vài nét chung về tác giả và bài thơ:
2. Hoàn cảnh ra đời:
- Tây Tiến là đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có
nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo về biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao
lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam.
- Địa bàn đóng quân và hoạt động của
đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền
tây Thanh Hoá và cả Sầm Nưa (Lào).
-
Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh,
sinh viên (như Quang Dũng), chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng
thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất
lạc quan và dũng cảm. Quang Dũng từng là đại đội trưởng.Đoàn quân Tây Tiến sau
một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52.
-
Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị chẳng bao lâu,
tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại tác giả đổi
tên bài thơ là Tây Tiến.
II. Nội dung đọc hiểu:
1. Bố cục:
- Theo văn bản, bài thơ chia
làm 4 đoạn. Ý chính của mỗi đoạn:
+ Đoạn 1: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân
Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.
+ Đoạn 2:Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm
liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
+ Đoạn 3:Chân dung của người lính Tây Tiến.
+ Đoạn 4:Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
- Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm
xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viét trong nỗi nhớ da diết của Quang
Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung
cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí
ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kỉ niệm được tái hiện lại một
cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như
những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm
cho hồi ức ấy trở nên sống động và người đọc có cảm tưỏng đang sống cùng với
nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.
2. Đoạn thơ: (Sông Mã........thơm nếp xôi)
- Ở đoạn thơ thứ nhất, bức tranh thiên
nhiên miền Tây lần lượt hiện ra qua những khung cảnh của địa bàn hoạt động,
những chặng đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến
cũng thấp thoáng hiện lên trên nền cảnh thiên nhiên ấy.
- Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là
một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm
nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra
trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi
cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ
có hoạ (“thi trung hữu hoạ”). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức
tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút
của núi rừng miền Tây- địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ
đầu, những từ ngữ giàu giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng
ngửi trời đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời
của núi đèo miền Tây. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất
táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng
chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi
cao dường như đang đi trong mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thơ thứ ba như
bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót
vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh người lính
tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt
mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh
trôi giữa biên khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo
nên một âm hương đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu
thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu thơ toàn thanh bằng). Quy luật này
cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu
nóng, tác giả sử dụng những gam màu lạnh làm dịu lại cả khổ thơ.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong
bài thơ Tây Tiếnlàm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế
núi gần xa,- Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở
của nó gợi nhớ tới câu thơ trong bài Đường Thục khó (Thục đạo nan) của Lí Bạch:
“Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan vu thướng thanh
thiên).
Vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê
gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở
ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở chiều thời gian, luôn là mối đe
doạ khủng khiếp đối với con người:
Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm
trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiên lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưi
rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,...Những tên đất lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông, Mường Hịch , những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều
vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn, được xoa dịu bằng những câu có nhiều
vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên
thế giới khác thường vừa đa dạng vừa độc đáo của núi rừng miền Tây Tổ quốc.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu
thơ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu
gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng
chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang
bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi
trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên.Hai câu thơ này tạo
nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc bước sang đoạn
thơ thứ hai.
3. Đoạn thơ: “Doanh
trại....hoa đong đưa”: Qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, thiên nhiên và
con người miền Tây hiện ra với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình.
- Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới
khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất
hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét
vẽ bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu đến đoạn này được thay bằng những nét mềm
mại, uyển chuyển, tinh tế. Sự tinh tế, tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ
rõ nhất trong đoạn thơ này.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp
dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ,
phương xa. Cảnh âýy, người ấy hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên
rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng
và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. Cảnh một đêm liên
hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui
được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất thơ mộng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em
xiêm áo tự bao giờ
Khèn
lên man điệu nàng e ấp
Nhạc
về Viên Chăn xây hồn thơ
Cả
doanh trại bừng sáng, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu.
Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn,
cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực.
Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say,
vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi
núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy (“xiêm áo tự
bao giờ”), vừa e thẹn, vừa tình tứ (“nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc
xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.
- Nếu
cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì
cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mông, mờ ảo:
Người
đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có
thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ
dáng người trên độc mộc
Trôi
dòng nước lũ hoa đong đưa
Không
gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ
lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền
thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc
thuyền độc mộc. Và như hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng đong đưa
làm duyên trên dòng nước lũ.
Ngòi
bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút
của ông như có hồn phảng phất trong gió (“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Ông
không chỉ lầm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn
gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.
Đọc
đoạn thơ này, ta nhưlạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm
nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên từ tâm hồn
ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ
này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý
nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như
ngậm âm nhạc trong miệng.
4. Đoạn thơ: “Tây
Tiến.......khúc độc hành”:
- Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ
dội của núi rừng (đoạn 1) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ (ở đoạn 2), đến đoạn
thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện với vẻ đẹp đậm chất bi tráng:
Tây
Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân
xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm
Quang
Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây
Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả
đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu hoà quyện, xâm nhập vào
nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng- thần thái chung của bức tượng đài.
- Thơ
ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét
hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bênh ấy: “Anh
với tôi biết từng cơn ớn lạnh,- Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Còn Tố
Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh
thật cụ thể: “Giọt mồ hôi rơi,- Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng
của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian
khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao của người lính.
Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một
cách trần trụi mà qua một cái nhìn đạm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không
mọc tóc của người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh li kì, sản phẩm của trí tưởng
tượng xa rời thực tế của nhà thơ, mà chứa đựng một sự thực nghiệt ngã. Những người
lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cà
với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói
khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vâvx toát
lên vẻ oai phong, dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫm
liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (“mắt trừng gửi mộng”) của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi
bút của Quang Dũng không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều
chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề
ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương
(“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc
nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường
nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên
trong đầy mộng mơ của họ.
- Ngòi
bút của Quang Dũng, khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến,
không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi
khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh
thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những
nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã
được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “Rải rác
biên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước
lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh”). Hình tượng người lính Tây Tiến có vẻ tiều tuỵ, tàn tạ
trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những
tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Sự thật bi thảm: những người
lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái
nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm “áo bào” sang trọng. Cái bi
thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (“anh về đất”), và rồi bị át hẳn đi trong
tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào
thay chiếu anh về đất
Sông
Mã gầm lên khúc độc hành
Trong
âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của
người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng
điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương
vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
5. Đoạn cuối:
Bài thơ
khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một
thời Tây Tiến, tinh thần chung của người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ
buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
Tây
Tiến người đi không hẹn ước
Đường
lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên
Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về
Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Cái
tinh thần “một đi khôngt trở lại” (“nhất khứ bất phục hoàn”) thấm nhuần trong tư
tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người
lính Tây Tiến vâvnx gắn bó máu thịt với những ngày, những nơi mà đoàn quân Tây
Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại.
Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng
đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
III. Câu hỏi
Đề . Phân tích bốn câu thơ sau đây trong bài
Tây Tiến của Quang Dũng:
Dốc lên khúc khuỷu dốc
thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi
trời
Ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi
a)Hai câu thơ đầu:
Diễn tả được sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc
(chú ý các từ đầy giá trị tạo hình: khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi
trời). Câu thứ nhất nghe như có hơi thở nặng nhọc của người lính. Cách dùng
từ “ngửi trời” của câu thơ thứ hai táo bạo, đồng thời có chất tinh nghịch của
người lính.
b)Hai câu thơ sau:
Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng. Đọc
câu thứ tư, có thể hình dung đoàn quân tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa thấy nhà ai thấp thoáng qua
một không gian mịt mùng sương rừng mưa núi.
Hai câu 3 và 4 phối hợp với nhau tạo
ra một âm hưởng đặc biệt (câu thứ 4 toàn thanh bằng).
Có thể liên hệ đến âm hưởng của hai câu thơ của Tản Đà
trong bài Thăm mả cũ bên đường: “Tài cao phận thấp chí khí uất - Giang hồ mê
chơi quên quê hơng” (Tản Đà tả tình, còn Quang Dũng tả cảnh).
Đề 2. Phân tích hình tượng
người lính Tây Tiến trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
a) Đây là hình tượng tập thể của người lính
Tây Tiến. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu của từng người lính để
tạc nên bức tượng đài tập thể mang tinh thần chung của cả đoàn quân.
b)Bốn câu thơ đầu nói về
vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến. Quang Dũng, khi viết về người lính
Tây Tiến không hề che giấu những khó khăn gian khổ, chỉ có điều, những cái đó
đều được nhìn bằng con mắt lãng mạn.
c)Bốn câu thơ sau nói tới
vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến. Cái bi thương ở đây bị mờ đi trước
lí tởng quên mình của người lính (Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh). Cái
sự thật bi thảm những người lính gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu
để che thân được vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất) và rồi bị át hẳn đi
trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã. Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc
hào hùng để tiễn đưa linh hồn những người lính Tây Tiến:
Áo bào thay chiếu anh về
đất
Sông Mã gần lên khúc độc
hành.
2. VIỆT BẮC
Tố Hữu
PHẦN MỘT: TÁC GIẢ
I. Tiểu sử:
- Tố Hữu ( 1920- 2002) tên khai sinh là Nguyễn
Kim Thành
- Quê quán: xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền,
tỉnh Thừa Thiên - Huế.
- Thời thơ ấu: Tố Hữu sinh ra trong một
gia đình Nho học ở Huế - mảnh đất thơ mộng, trữ tình còn lưu giữ nhiều nét văn
hoá dân gian.
-Thời thanh niên: Tố Hữu sớm giác ngộ cách mạng
và hăng say hoạt động, kiên cường đấu tranh trong các nhà tù thực dân
-Thời kỳ sau CM tháng Tám: Tố Hữu đảm nhiệm những cương
vị trọng yếu trên mặt trận văn hoá văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước.
II. Đường cách
mạng, đường thơ: Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.
Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật nhữngchặng đường
cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân
tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và
bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ.
1.Tập thơ Từ ấy ( 1937 – 1946): Tập thơ chia làm 3 phần:
+ Máu
lửa (sáng tác trong thời kì Mặt trận Dân chủ). Nhà thơ cảm thông sâu sắc với
cuộc sống cơ cực của những người nghèo khổ trong xã hội (lão đầy tớ, chị vú em,
cô gái giang hồ, những em bé mồ côi,...) , đồng thời khơi dậy ở họ ý chí đấu
tranh và niềm tin vào tương lai.
+ Xiềng
xích (sáng tác trong các nhà lao lớn ở Trung Bộ và Tây Nguyên). Đó là tâm tư
của một người trẻ tuổi tha thiết yêu đời và khao khát tự do, là ý chí kiên cường
của người chiến sĩ quyết tâm tiếp tục cuộc chiến đấu ngay trong nhà tù.
+ Giải
phóng: thể hiện niềm vui chiến thắng, ca ngợi c/m thành công với cảm hứng lãng
mạn dâng trào.
2. Tập thơ Việt Bắc (1947 – 1954):
+ Phản
ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc, thể hiện con người quần
chúng kháng chiến.
+
Thể hiện những tình cảm lớn của con người VN mà bao trùm là lòng yêu nước.
3.Tập thơ Gió
lộng (1955 – 1961): tình cảm bao trùm trong đời sống tinh thần của con người
VN là
+ Niềm vui và niềm tự
hào, tin tưởng ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới XHCN ở miền Bắc.
+
Thể hện tình cảm với miền Nam
và ý chí thống nhất Tổ quốc.
+
Khẳng định tình cảm quốc tế vô sản.
4. Tập thơ Ra
trận (1962 – 1971), Tập thơ “Máu và Hoa” (1972 – 1977):
+ Phản ánh sinh động
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nd 2 miền Nam, Bắc; tự hào tin tưởng con
đường c/m dưới sự lãnh đạo của Đảng; bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn đối với
Bác.
+
Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng C/M, ca ngợi Tổ quốc – chân lí của thời đại, ghi lại
những đau thương và chiến thắng hào hùng của dân tộc.
Hai
tập thơ mang đậm nét sử thi và cảm hứng lãng mạn.
5. Tập thơ :
“ Một tiếng đờn” (1978 – 1992), tập thơ “Ta với Ta” (1993 – 1999) đây là những
tập thơ thể hiện những suy ngẫm chiêm nghiệm của nhà thơ về cuộc sống và lẽ
đời.
III. Phong cách thơ Tố Hữu:
1. Về nội dung: Thơ Tố Hữu mang phong cách trữ
tình chính trị rất sâu sắc:
- Trong việc biểu hiện tâm hồn,
thơ Tố Hữu hướng tới cái ta chung
- Trong việc thể hiện đời sống,
thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi.
- Những điều đó được thể hiện
qua giọng thơ mang tính chất tâm tình.
2. Về nghệ thuật: thơ Tố Hữu mang phong cách dân tộc rất đậm đà.
- Thể thơ: lục bát, thất ngôn.
- Ngôn ngữ thơ: dùng từ ngữ và
cách nói dân gian, phát huy tính nhạc phong phú trong tiếng Việt.
2. VIỆT BẮC - Tố Hữu
I. Hoàn cảnh sáng
tác :
- Việt Bắc là quê hương
cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở đùm bọc
cho Đảng, Chính Phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian
khổ.
- Sau chiến thắng Điện Biên
Phủ, tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết, hòa bình
trở lại, miền Bắc nước ta được giải phóng.
- Tháng 10 năm 1954, các
cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà
Nội.
- Một trang sử mới của đất nước và một giai
đoạn mới của cách mạng được mở ra. Nhân sự kiện trọng đại này, Tố Hữu viết bài
thơ Việt Bắc.
- Bài thơ được trích trong
tập Việt Bắc (1947 - 1954)
II. Nội dung đọc hiểu:
1. Lời Việt Bắc đối với
người cán bộ cách mạng
Mở đầu là một
câu hỏi ngọt ngào bâng khuâng:
Mình về mình …nhìn sông nhớ nguồn
Tố Hữu đã
khơi rất sâu vào nguồn mạch đạo lý ân nghĩa thủy chung của dân tộc để thể hiện
tình cảm cách mạng. Mười lăm năm ấy là trở về với cội nguồn những năm tiền
khởi nghĩa sâu nặng biết bao ân tình. 4 câu thơ điệp lại 4 chữ mình, 4 chữ nhớ,
1 chữ ta hòa quyện 1 câu hỏi về thời gian (10 năm...) một câu hỏi về không gian
(nhìn cây...). Khổ thơ ngắn nhưng đã dồn góp lại cả một thời cách mạng. Tấm
lòng người ở đã tỏ lộ giãi bày trong không gian, theo thời gian.
Tiếng ai tha thiết …nói gì hôm nay...
Quyến luyến
không nỡ rời, xúc động nghẹn ngào nói không nên lời, tình cảm cồn cào bối rối
ấy làm thay đổi cả nhịp thơ. Tiết tấu 2/2 của nhịp lục bát bỗng xao động trong
nhịp 3/3/2 diễn tả thật đắt tấm lòng người đi với người ở lại. Dấu chấm lửng
như khoảng trống khó lấp đầy, sự im lặng hàm chứa bao xao xuyến không lời.
Mình đi có nhớ những ngày
….. Tân
Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
Có câu hỏi
cụ thể : nhớ Tân Trào, Hồng Thái, trám
bùi, măng mai; có câu hỏi trừu tượng: chiến
khu, mối thù, lòng son...;phép tiểu đối 4/4 (hắt hiu lau xám > < đậm đà lòng son). Tất cả, đã giúp Tố Hữu
diễn tả thật đắt nỗi xao xuyến nhớ thương của người ở với người đi. Đặc biệt
câu thơ lục bát cuối khổ:
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái, mái đình, cây đa
Ba chữ mình trong câu thơ 6 chữ đồng nhất
tâm sự người đi, người ở đã tạo ra sự hô ứng đồng vọng giữa người hỏi,
người đáp, hòa thành bản hợp ca ngân vang những hòa âm tâm hồn. 12 câu cấu tạo
thành 6 câu hỏi, mỗi câu thơ đều khắc khoải tâm tình da diết, khắc khảm vào
lòng người đi những kỉ niệm từ ngày đầu cách mạng. Mái đình Hồng Thái, Cây đa
Tân Trào được chuyển vế thành Tân Trào,
Hồng Thái mái đình, cây đa mang đến cho ta một liên tưởng: Việt Bắc đã
thật sự trở thành quê hương thứ hai của người cán bộ miền xuôi. Bởi hình ảnh mái đình, cây đa ở đâu và khi nào cũng
khơi gợi trong tâm hồn người Việt hình ảnh quê hương.
2. Lời người cán bộ cách
mạng
Ta với mình, mình với ta
…
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Cách nói mình –ta của ca dao dân ca, điệp từ mình cùng với biện pháp nghệ thuật so
sánh nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy
nhiêu khẳng định lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với quê hương kháng
chiến của người cán bộ vê xuôi.
Nhớ gì như nhớ người yêu
…
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
-
Hình ảnh so sánh như nhớ người yêu
thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm.
- Hình ảnh gợi cảm
đầy thi vị :bản khói cùng sương, bếp lửa, trăng lên đầu núi… gợi nhớ những nét
mang đậm hồn người.
Ta đi ta nhớ những ngày
…Chày đêm nện cối đều đều suối xa
- Hình ảnh đắng cay ngọt bùi, thương nhau chia củ sắn
lùi, bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng là hình ảnh đậm đà giai cấp. (Người
Việt Bắc trong nỗi nhớ người về thật đáng yêu, đáng quý, nặng tình nặng nghĩa,
biết chia sẽ ngọt bùi.
* Bức tranh tứ bình:
Ta về mình có nhớ ta
…. Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy
chung
a. Đoạn này được
xem là đặc sắc nhất Việt Bắc. 10 câu lục bát thu gọn cả sắc màu 4 mùa, cả âm
thanh cuộc sống, cả thiên nhiên con người Việt Bắc.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Tố Hữu lựa
chọn thật đắt hình ảnh đối xứng : hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của
thiên nhiên, kết tinh từ hương đất sắc trời, tương xứng với con người là hoa
của đất. Bởi vậy đoạn thơ được cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát
nói tới con người. Nói đến hoa hiển hiện hình người, nói đến người lại lấp
lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người
hòa quyện với nhau tỏa sáng bức tranh thơ. Bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình
đặc sắc.
b. Trước hết
đó là nỗi nhớ mùa đông Việt Bắc - cái
mùa đông thuở gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Câu thơ
truyền thẳng đến người đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của
rừng già. Cái màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái
màu xanh chứa chất bao sức mạnh bí ẩn “Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng”.
Màu xanh núi rừng Việt Bắc:
Rừng giăng thành lũy thép dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Trên cái nền
xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tơi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn làm ấm
cả không gian, ấm cả lòng người. Hai chữ “đỏ tươi” không chỉ là từ ngữ chỉ
sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung
động rất thi nhân.
Có thể thấy
cái màu đỏ trong câu thơ Tố Hữu như điểm sáng hội tụ sức mạnh tiềm tàng chốn
rừng xanh đại ngàn, lấp lóa một niềm tin rất thật, rất đẹp. Trên cái phông nền
hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật vững trãi, tự tin.
Đó là vẻ đẹp của con người làm chủ núi rừng, đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng
với thiên nhiên, “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
c. Cùng với
sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân) là sự chuyển màu trong bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già
chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng
bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc sang xuân.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Trắng cả
không gian “trắng rừng”, trắng cả thời gian “ngày xuân”. Hình ảnh này khá quen
thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào trờng ca Theo chân Bác gợi tả mùa xuân rất đặc trưng
của Việt Bắc:
Ôi sáng xuân
nay xuân 41
Trắng rừng
biên giới nở hoa mơ
Cái sắc
trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn người ở, thẫn thờ kẻ đi.
Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại
càng không thể không nhớ đến con người Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ
điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm lặng mà cần mẫn tài hoa:
Nhớ người
đan nón chuốt từng sợi giang
Hai chữ
“chuốt từng” gợi lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa, dường như bao yêu thương đợi
chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón. Cảnh thì
mơ mộng, tình thì đợm nồng. Hai câu thơ lưu giữ lại cả khí xuân, sắc xuân,
tình xuân vậy. Tài tình như thế thật hiếm thấy.
d. Bức tranh
thơ thứ 3 chuyển qua rừng phách - một loại cây rất thường gặp ở Việt Bắc hơn
bất cứ nơi đâu. Chọn phách cho cảnh hè là sự lựa chọn đặc sắc, bởi trong rừng
phách nghe tiếng ve ran, ngắm sắc phấn vàng giữa những hàng cây cao vút, ta như
cảm thấy sự hiện diện rõ rệt của mùa hè. Thơ viết mùa hè hay xưa nay hiếm, nên
ta càng thêm quí câu thơ của Tố Hữu:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Ở đây có sự
chuyển đổi cảm giác rất thú vị: Tiếng ve kêu - ấn tượng của thính giác đã đem
lại ấn tượng thị giác thật mạnh. Sự chuyển mùa được biểu hiện qua sự chuyển
màu trên thảo mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh,
những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên,
những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lai
láng sắc vàng. Chữ đổ được dùng thật
chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả
tài tình từng đợt mưa hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện
chính xác khoảng khắc hè sang. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy
màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng
huyền ảo.
Trên nền
cảnh ấy, hình ảnh cô em gái hiện lên xiết bao thơ mộng, lãng mạn: “Cô em gái
hái măng một mình” nghe ngọt ngào thân thơng trìu mến. Nhớ về em, là nhớ cả
một không gian đầy hương sắc. Người em gái trong công việc lao động hàng ngày
giản dị: hái măng. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng
ấy còn được tô đậm ở hai chữ “một mình” nghe cứ xao xuyến lạ, như bộc lộ thầm
kín niềm mến thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa...
e. Khép lại bộ
tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên
trong thời điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua kẽ lá dệt lên mặt
đất một thảm hoa trăng lung linh huyền ảo.
Dưới ánh
trăng thu, tiếng hát ân tình càng làm cho cảnh thêm ấm áp tình người. Đại từ
phiếm chỉ “ai” đã gộp chung người hát đối đáp với mình làm một, tạo một hòa âm
tâm hồn đầy bâng khuâng lu luyến giữa kẻ ở, ngời đi, giữa con người và thiên
nhiên.
g. Mỗi câu
lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng
hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc...
Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của
hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng
ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên
thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.
3. Nhớ Việt Bắc kháng
chiến, Việt Bắc anh hùng :
- Nhịp thơ sôi nổi náo
nức gợi lên khung cảnh những ngày kháng chiến chống Pháp thật hào hùng nó được
vẽ bằng bút pháp tráng ca.
- Hình ảnh Việt Bắc sôi động
trong những ngày chuẩn bị kháng chiến để đi đến thắng lợi cuối cùng.
- Đoạn cuối: khẳng định
vị trí quan trọng của VB lòng tin của toàn dân đối với BH ,khẳng định tình cảm thủy chung đối với quê
hương cách mạng.
- Điệp từ nhớ: với những
sắc thái khác nhau theo
cấp độ tăng dần thể hiện tình cảm lưu luyến, nỗi nhớ da diết theo đó cũng
được nâng cao.
4. Kết luận:
Tiếng thơ
trữ tình chính trị của Tố Hữu đã mượn được hình thức cấu tứ giã bạn, kết cấu
theo lối đối đáp giao duyên và thể loại lục bát đậm đà tính dân tộc. Nhờ vậy Tố
Hữu đã thơ hoá sự kiện chính trị một
cách hiệu quả không ngờ. Những câu thơ cân xứng trầm bổng, ngọt ngào vừa thể
hiện được tình cảm đối với cách mạng, vừa nói được vấn đề rất to lớn của thời
đại, vừa chạm được vào chỗ sâu thẳm trong tâm hồn dân tộc: truyền thống ân
nghĩa, thủy chung. Việt Bắc đã đạt tới tính dân tộc, tính đại chúng. Đó là sức
sống trường tồn của bài thơ.
* CÂU HỎI
THAM KHẢO
Đề 1: Hoàn cảnh sáng tác bài thơ VB ? Vì sao có thể nói: VB không chỉ là tình
cảm riêng của TH mà còn là tiêu biểu cho suy nghĩ, tình cảm cao đẹp của con
người kháng chiến đối với VB, với nhân dân, với kháng chiến, với cách mạng.
Gợi ý:
Hoàn cảnh sáng tác: Sau chiến
thắng ĐBP, hoà bình trở lại, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 – 1954 các cơ
quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu VB về HN. Bài thơ được tác
giả sáng tác trong hoàn cảnh này. Bài thơ thể hiện tình quân dân thắm thiết,
tái hiện cuộc chia tay. VB là đỉnh cao của thơ TH & là một tp xuất sắc của
VHVN thời kì kc chống P.
Bài thơ nói lên tình nghĩa thắm
thiết với Vb quê hương cm, với nd, với cuộc kháng chiến gian khổ nay đẫ trở
thành kỉ niệm sâu nặng…
Bài thơ phác hoạ những tháng ngày
gian lao nhưng vẻ vang của CM và kháng chiến…
Đề 2: Hoàn cảnh
sáng tác VIỆT BẮC – Tố Hữu .
Việt Bắc là căn cứ địa của cách mạng và kháng
chiến .
·
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơnevơ về Đông
Dương được kí kết (tháng 7- 1954) hòa bình lập lại, m. Bắc nước ta được giải
phóng. Một trang sử mới của đất nước,một giai đoạn mới của CM được mở ra.
·
Tháng 10 năm ấy, các cơ quan trung ương của Đảng và chính
phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy, Tố Hữu sáng
tác bài “Việt Bắc” .
“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là
một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp
.
Bài thơ gồm 150 câu lục bát ,là khúc hát trữ tình
hay nhất trong tập thơ cùng tên của nhà thơ, đoạn trích (90 câu lục bát ) là phần mở đầu và phần I,
nói về những kỉ niệm với kháng chiến.
Đề 3: Phân tích bài thơ “Việt Bắc”
Hai mươi câu đầu là lời nhắn
gửi, những câu hỏi của “ta” (người ở lại nhắn gửi hỏi “mình” (người về). Cảnh tiễn
đưa, cảnh phân ly ngập ngừng, lưu luyến bâng khuâng: “Tiếng ai tha thiết bên
cồn… áo chàm đưa buổi phân li…” Có 8 câu hỏi liên tiếp (đặt ở câu 6): “Có nhớ
ta… có nhớ không… có nhớ những ngày… có nhớ những nhà… có nhớ núi non… mình có
nhớ mình…” Sự láy đi láy lại diễn tả nỗi niềm day dứt khôn nguôi của người ở
lại. Bao kỷ niệm sâu nặng một thời gian khổ như vương vấn hồn người:
(…) Mình đi có nhớ,
những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến
khu
Miếng cơm chấm muối,
mối thù nặng vai
Mình đi có nhớ những
nhà
Hắt hiu lau xám, đậm
đà lòng son…
Các câu 8 hầu như
ngắt thành 2 vế tiểu đối 4/4, ngôn ngữ thơ cân xứng, hài hòa, âm điệu thơ êm
ái, nhịp nhàng, nhạc điệu ngân nga thấm sâu vào tâm hồn người, gợi ra một
trường thương nhớ, lưu luyến mênh mông.
“Mình” và “ta” trong
ca dao, dân ca là lứa đôi giao duyên tình tự. “Mình”, “ta” đi vào thơ Tố Hữu đã
tạo nên âm điệu trữ tình đậm đà màu sắc dân ca, nhưng đã mang một ý nghĩa mới
trong quan hệ: người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc; tình quân dân,
tình kẻ ở người về.
Sáu mươi tám câu tiếp theo là người về trả lời kẻ ở lại. Có thể nói
đó là khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến, của người về. Bao trùm nỗi
nhớ ấy là “như nhớ người yêu” trong mọi thời gian và tràn ngập cả không gian:
- Nhớ cảnh Việt Bắc,
cảnh nào cũng đầy ắp kỷ niệm:
“Nhớ từng bản khói
cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người
thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ
tre,
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
- Nhớ con người Việt Bắc giàu tình nghĩa cần
cù gian khổ:
“… Nhớ bà mẹ
nắng cháy lưng
… Nhớ người
đan nón chuốt từng sợi dang
…Nhớ cô em
gái hái măng một mình
… Nhớ ai
tiếng hát ân tình thủy chung”
Điều đáng nhớ nhất là nhớ người ở lại rất giàu tình nghĩa, “đậm đà lòng son”:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn
sui đắp cùng”
Nhớ cảnh 4 mùa chiến khu. Nỗi nhớ gắn
liền với tình yêu thiên nhiên, tình yêu sông núi, đầy lạc quan và tự hào. Nhớ
cảnh nhớ người, “ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ mùa đông “Rừng xanh hoa
chuối đỏ tươi”. Nhớ “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Nhớ mùa hè “Ve kêu rừng phách
đổ vàng”. Nhớ cảnh “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nỗi nhớ triền miên, kéo dài
theo năm tháng.
- Nhớ chiến khu oai hùng:
- Nhớ con đường chiến dịch:
“Những đường Việt Bắc
của ta,
Đêm đêm rầm rập như
là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn
cũng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng
đoàn
Bước chân nát đá muôn
tàn lửa bay…”
Âm điệu thơ hùng
tráng thể hiện sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta. Từ núi
rừng chiến khu đến bộ đội, dân công, tất cả đều mang theo một sức mạnh nhân
nghĩa Việt Nam thần kỳ quyết thắng.
- Nỗi nhớ gắn liền với niềm tin… Nhìn
lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
… Trông về Việt Bắc
mà nuôi chí bền”
- Nhớ Việt Bắc là nhớ về cội nguồn, nhớ
một chặng đường lịch sử và cách mạng:
“Mười lăm năm ấy ai
quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”
3. ĐẤT
NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
I.Giới thiệu chung
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Cũng
như một số nhà thơ hàng đầu của thời kỳ này, Nguyễn Khoa Điềm tâm huyết với
chủ đề lớn của thơ ca đương thời là “Đất Nước”. Trường ca “Mặt đường khát
vọng”, là thành công không chỉ riêng Nguyễn Khoa Điềm mà của cả nền thơ ca
kháng chiến chống Mĩ trong việc chiếm lĩnh đề tài Tổ quốc.
Ra đời 1974 trên chiến trờng Bình Trị Thiên khói lửa,
Trường ca Mặt đường khát vọng đã thành công nhiệm vụ thức tỉnh tinh
thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm
nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân đất nước, ý thức được
sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của
toàn dân tộc.
Đoạn trích “Đất Nước” chiếm gần trọn vẹn chương V của
bản trường ca. Đây là chương hay nhất tập trung những suy nghĩ cảm nhận mới
mẻ về đất nước, đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất
Nước là của Nhân Dân.
II.Nội dung đọc hiểu:
1.Đề tài và
cấu tứ
Đất nước là chủ đề được quan tâm hàng đầu của nền Văn
học Việt Nam - nền văn học của một dân tộc 4000 năm dựng nước cũng là 4000 năm
giữ nước. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã manh nha từ trong lịch
sử xa xưa... Những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn của dân tộc ta đã
từng nhận thức sâu sắc vai trò của nhân dân trong lịch sử”: “Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân” (Nguyễn Trãi)
“Trăm việc nghĩa không việc nghĩa nào ngoài việc nghĩa vì
nước. Trăm điều nhân không điều nhân nào ngoài điều nhân thương dân”
Song phải đến nền văn học hiện đại Việt Nam, được soi
sáng bằng tư tưởng Hồ Chí Minh, bằng quan điểm Mác xít về nhân dân, được
trải nghiệm trong thực tiễn vĩ đại của cuộc cách mạng mang tính nhân dân sâu
sắc, văn học từ sau cách mạng tháng Tám đã đạt đến sự nhận thức sâu sắc về nhân
dân và cảm hứng về đất nước đã mang tính dân chủ cao. Đặc biệt giai đoạn chống
Mỹ, tư tưởng đất nước của nhân dân một lần nữa lại được nhận thức sâu sắc
thêm bởi vai trò và những đóng góp hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc kháng
chiến dài lâu và cực kì ác liệt. Các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ đã phát biểu một
cách thấm thía cảm nhận mới mẻ về đất nước. Song tư tưởng Đất nước là của
nhân dân có lẽ được kết tinh hơn cả trong trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn
Khoa Điềm trong Trường ca MĐKV
Nguyễn Khoa Điềm đã kết hợp giữa chính luận và trữ tình
để trình bày những cảm nhận và suy tưởng về Đất Nước dưới hình thức lời trò
chuyện tâm tình giữa đôi lứa yêu nhau. Đất Nước được cảm nhận toàn vẹn từ
nhiều bình diện: Trong chiều dài của thời gian lịch sử, trong bề rộng của không
gian địa lý, trong tầm cao của đời sống văn hóa, phong tục, tâm hồn tính cách
cha ông... Ba phương diện đó gắn bó với nhau làm nổi bật tư tưởng cơ bản:
Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Tư tưởng đó là hệ qui chiếu mọi xúc
cảm suy tưởng của tác giả để từ đó nhà thơ có thêm những phát hiện mới làm
phong phú sâu sắc hơn quan niệm về đất nước trong thơ ca chống Mĩ.
2.Cảm nhận
mới mẻ về Đất Nước
Hai chữ Đất Nước trong toàn chương và trong đoạn trích
được viết như một mĩ từ thể hiện tình cảm thiêng liêng sâu sắc của nhà thơ
với đất nước và tạo nên nỗi xúc động thiêng liêng cho người đọc. Sự vỡ tách
và nhập ghép 2 âm tiết: đất nước trong một phát hiện đượm phong vị triết học:
“Đất là nơi anh đến trờng...
nồng thắm”
Anh là đất - phù hợp với khí chất vững vàng kiên định, em
là nước thật dịu dàng nữ tính. Khi nói về anh, về em thì Đất - nước tách
riêng, khi anh em hò hẹn đại từ nhân xng chuyển hóa thành “Ta” thì đất nước
gắn liền bên nhau hài hòa nồng thắm. Khi tách riêng ra thì “Đất là hòn núi
bạc”, Nước là “Biển khơi”, khi hợp nhất lại “Đất Nước là nơi dân mình đoàn
tụ”. Khi tách riêng ra “Đất là nơi chim về”, “Nước là nơi rồng ở” khi hợp nhất
lại “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”. Nguyễn Khoa Điềm thể hiện đầy
xúc động cảm nhận mới mẻ về đất nước: Đó là sự thống nhất giữa riêng và chung,
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này với thế hệ khác. Đất nước không chỉ
bên ta, quanh ta mà cả trong ta. Điệp ngữ Đất Nước vang lên như một khúc nhạc
thiêng tấu lên suốt chiều dài đoạn thơ. Đất Nước là 2 tế bào khởi đầu cho mọi
sự sinh thành.
Chúng kết hợp giao hòa để tạo nên có thể đất đai, dáng
hình xứ sở, cứ thể đất nước lớn lên trong tình yêu đôi lứa, trong thời gian
đằng đẵng. Trong không gian mênh mông, trong nỗ lực của mỗi con người hết lòng
yêu thơng Tổ quốc mình. Đất nước chân thực như “búi tóc của mẹ, miếng trầu
của bà” mà vô cùng huyền ảo với “chim về, rồng ở. Lạc Long Quân và Âu Cơ...
Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm có khả năng đánh thức
tình cảm cội nguồn trong đáy tâm linh Việt:
“Hàng năm ăn
đâu làm đâu
Cũng biết
cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”
Bằng những câu thơ cấu tạo như định nghĩa Nguyễn Khoa
Điềm đã tổng kết lịch sử trong quá trình sinh thành đất nước, tạo nên địa bàn
cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua. Nhà thơ đã chỉ rõ chủ nhân chân
chính của đất nước là nhân dân. Đằng sau mỗi tên đất tên sông là mỗi cuộc đời
và kì tích cha ông. Chính nhân dân đã xây dựng mở mang và giữ gìn đất nước. Họ
là những con người bình dị, vô danh:
“Họ đã sống và đã
chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt
tên
Nhưng họ đã làm ra
Đất nước”.
Đây là cảm quan lịch sử mới về vai trò của nhân dân dới
ánh sáng của hệ tư tưởng mới: Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Lần
theo những địa danh suốt 3 miền Bắc, Trung, Nam, Nguyễn Khoa Điềm dã dựng nên
diện mạo non sông dáng hình xứ sở qua cuộc đời con người: nhất là những con người
bình thường, vô danh... Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một thành công trong dàn
hợp xướng về đất nước của thơ ca thời chống Mĩ, làm sâu sắc thêm nhận thức về
nhân dân và Đất nớc của Văn hóa thời kỳ này.
3.Chất liệu văn hóa dân gian góp phần thể hiện tư tưởng: đất nước của
nhân dân.
Thành công của đoạn trích còn ở việc tạo ra một không
khí, giọng điệu không gian nghệ thuật riêng đưa ta vào thế giới gần gũi mĩ lệ
và giàu sức bay bổng của ca dao truyền thống, của văn hóa dân gian, nhưng lại
mới mẻ qua cảm nhận và tư duy hiện đại. Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ
bình dị vừa thân thiết gần gũi vừa huyền diệu thiêng liêng: “Khi ta lớn lên Đất
nớc đã có rồi”. Nó tạo mối liên hệ máu thịt giữa mỗi con người với đất nước.
Tình cảm mỗi con người đối với đất nước lớn lên theo năm tháng, sự trưởng
thành của mỗi người làm đất nước thêm lớn mạnh. Từ không gian huyền thoại,
thời gian cổ tích: “từ ngày xửa ngày xa” chuyển hóa nhanh chóng sang không
gian đời thường, thời gian hiện tại “Miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ bây
giờ”. Sự co giãn trong từng câu thơ (ngắn, dài xen kẽ), cách mở rộng nghĩa
trong trường liên tưởng, lối đối xứng xa nay để tương sinh, cái huyền ảo và
đời thường đặt cạnh nhau mà không tương khắc khiến Đất nước được cảm nhận
như sự thống nhất của các phương diện văn hóa, truyền thống phong tục, cái hàng
ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.
Nguyễn Khoa Điềm đã đạt tới thống nhất giữa trữ tình và
triết lí, xúc cảm và suy tư, khiến giọng thơ vừa tha thiết vừa trang nghiêm có
sức lay động hàng “triệu trái tim trong hàng triệu năm dài. Thành công của đoạn
thơ mà còn ở chỗ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hóa dân gian để làm
nên chất kết dính các hình ảnh thơ của mình. Không chỉ sử dụng vẹn nguyên mà
tác giả còn sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hóa dân
gian lâu đời, cho chúng một sức sống mới, một ý nghĩa mới. Những câu thơ thấm
đẫm chất dân gian truyền thống mà rất hiện đại. Những câu ca dao, tục ngữ,
thành ngữ, truyền thuyết quen thuộc nhng khi đi vào bài thơ đã lấp lánh ánh
sáng tài năng, tâm hồn tình cảm Nguyễn Khoa Điềm:
“Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn
Đất nước là
nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nối nhớ thầm”
Đất nước có trong tình yêu thương của mẹ cha trong
khoảnh khắc bồi hồi thầm thương trộm nhớ của mỗi người. Chúng ta có thể bắt
gặp trong đoạn trích rất nhiều những câu thơ đầy tính sáng tạo, làm nên những
hình tượng thơ vừa gần gũi mới mẻ, vừa đẹp đẽ đến như thế. Sự đậm đặc của yếu
tố dân gian và cách nhìn cách thể hiện mới mẻ đã tạo ra một bầu khí quyển độc đáo
huyền ảo bao trùm suốt đoạn thơ với những câu thơ có khả năng ngân vang trong
cõi tiềm thức và cả vô thức của người Việt. Ngày xưa khi định nghĩa về đất nước,
Lý Thường Kiệt phải thiêng hóa qua “đế cư” “thiên thư” Nguyễn Đình Chiểu phải
mượn hình ảnh kì vĩ “Nhật nguyệt chói lòa”, “xa thư đồ sộ” để trang trọng hóa
đất nước. Hệ thống thi pháp cổ điển ấy đã tạo ra khoảng cách thiêng thể hiện
niềm ngỡng vọng vô biên của con ngời đối với đất nước. Còn ở đây, trong
trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm, ngôn từ đậm chất liệu văn hóa dân
gian đã nỗ lực bình dị đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có công đưa đất nước từ
trời cao thượng đế, ngai vàng đế vương xuống miếng trầu của bà, búi tóc của
mẹ, hạt gạo một nắng hai sương nuôi dưỡng cộng đồng Việt, cái cột cái kèo
trong mái ấm thân thương của mỗi gia đình... Đất nước thân thương giản dị
xiết bao. Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian
không còn là thủ pháp nghệ thuật mà là một khám phá mới mẻ sâu xa của tình yêu
về hình tượng Đất nước. Văn hóa dân gian là của nhân dân... Chất liệu văn hóa
dân gian trong ngôn ngữ và hình ảnh thơ đã tập trung thể hiện chủ đề của toàn
tác phẩm: Đất nước này là đất nước của nhân dân.
Tư tưởng đó là điểm qui tụ mọi cách nhìn về đất nước
từ thắng cảnh thiên nhiên kì thú: Núi vọng phu, hòn trống mái... trong mối liên
hệ máu thịt với đời sống dân tộc. Từ cảm nhận cụ thể, tác giả đã qui nạp hàng
loạt hiện tượng để đi đến một khái quát sâu sắc đầy sức thuyết phục:
“Và ở đâu
trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống của
ông cha
Ôi đất nước sau bốn
nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã
hóa núi sông ta”
Khi nghĩ về lịch sử 4000 của đất nước, tác giả không
điểm lại các vương triều phong kiến, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh công
đức những con người bình dị vô danh: “Trong
4000 lớp người... ra đất nước” chính những người vô danh bình dị ấy đã
giữ gìn và truyền lại cho đời sau bó đuốc truyền thống trong cuộc chạy tiếp sức
giữa các thế hệ các giá trị văn hóa, văn minh tinh thần vật chất của Đất nước,
dân tộc: Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ, Nguyễn Khoa Điềm trở về với
cội nguồn văn hóa dân gian để định nghĩa một cách bất ngờ .
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước
của ca dao thần thoại
Nguyễn Khoa Điềm sử dụng hai vế song song đồng đẳng nhân
dân - ca dao thần thoại. Bằng cách đó đã định nghĩa đất nước là kết tinh cao
quý nhất đời sống trí tuệ, tình cảm của nhân dân. Bởi vẻ đẹp tinh thần của nhân
dân kết tinh hơn đâu hết là ở ca dao dân
ca, cổ tích. Câu thơ với 2 vế song song đồng đẳng đã khiến định nghĩa
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm vừa giản dị vừa huyền ảo. Tác giả chọn trong kho
tàng dân gian 3 câu nói về 3 phương diện quan trọng nhất của Đất Nước được
tác giả cảm nhận và phát hiện trong cái nhìn tổng hợp toàn vẹn mang đậm tư tưởng
truyền thống dân tộc: Rất say đắm trong tình yêu (yêu em). Rất quí trọng tình
nghĩa (Quý công cầm vàng...) nhưng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến
đấu (biết trống tre... lâu.)
4.Trách nhiệm bổn phận của mỗi cá nhân đối với đất nớc: Đất nước
không ở đâu xa mà kết tinh hóa thân trong cuộc sống mỗi con người:
“Em ơi em
Đất nước là máu xương của mình
Phải biết
gắn bó và san sẻ
Phải
biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất
nước muôn đời...”
Đoạn thơ như một lời nhắn nhủ thiết tha. Mở đầu bằng
tiếng gọi tha thiết: Em ơi em ...
khiến tính chính luận không mang màu sắc giáo huấn mà như một lời tự nhủ tự
dặn chân thành: sự sống của mỗi cá nhân không phải là chỉ riêng của cá nhân mà
còn là của đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn
hóa tinh thần vật chất của dân tộc, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ,
phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Trách nhiệm của mỗi cá nhân
không chỉ là bổn phận bảo vệ biên cương địa giới, tiếp nối truyền thống lịch
sử, mà còn ở việc bảo lưu văn hóa phong tục, giữ gìn nét đẹp tâm hồn tính cách
dân tộc. Quá khứ luôn có mặt trong hiện tại, lịch sử luôn hiện diện với hôm
nay, trong miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ là cả truyền thống 4000 năm tuổi.
Hạt gạo một nắng hai sương hôm nay cũng là những hạt gạo nuôi dưỡng dân tộc
Việt 4000 năm qua. Trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước trong hiện tại
là sự trân trọng đối với quá khứ là xây dựng nền tảng cho tương lai, làm nên
huyết mạch nuôi dưỡng có thể đất đai, tạo sức sống trường cửu của dân tộc. Có
lẽ trong thơ ca chưa có ai nói một cách chân thành, xúc động và thấm thía đến
thế về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với dân tộc đất nớc nh Nguyễn Khoa
Điềm trong trích đoạn “Đất Nước” này: Đất Nước
không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể,
sự sống của mỗi con người. Sự sống của mỗi cá nhân chỉ có ý nghĩa trong sự trường
tồn của đất nước.
III.Kết luận
Đất Nước là đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca kháng
chiến chống Mĩ. Mỗi nhà thơ lại có cảm nhận riêng về Đất Nước nhưng tất cả
đều xuất phát từ tấm lòng chung đó là tình yêu thiết tha với quê hương đất nước.
Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức sâu sắc
vai trò và sự đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc
chiến tranh dài lâu và cực kì ác liệt này. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân từ
trong văn học truyền thống đã được Nguyễn Khoa Điềm phát triển đến đỉnh cao,
mang tính dân chủ sâu sắc. Chất liệu văn hóa dân gian được nhà thơ sử dụng
nhuần nhuyễn, biến ảo đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ thống nhất với
tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” của bài
thơ. Như vậy tác giả đã vượt qua tính thời sự của một thời để nói lên tiếng
nói của muôn đời .
Định hướng đề và gợi ý giải
*Câu hỏi tham khảo
Đề 1. Phân tích và
phát biểu cảm nghĩ của mình về đoạn sau:
Trong anh và em hôm
nay
Đều có một phần đất
nước…..
……Phải biết hóa thân
cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn
đời...
Trong phần đầu của đoạn thơ, tác giả đã cảm nhận về đất
nước một cách trọn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện: thời gian lịch sử và
không gian địa lý, huyền thoại, truyền thuyết và đời sống sinh hoạt hàng ngày
của mỗi gia đình. Đất nước được cảm nhận vừa thiêng liêng, sâu xa lại vừa gần
gũi thân thiết. Những dòng thơ ở cuối phần là một sự cảm nhận sâu sắc và phát
hiện mới mẻ của tác giả về đất nước trong sự sống, tình yêu, trong vận mệnh và
trách nhiệm của mỗi cá nhân.
Trong anh và
em hôm nay
Đều có một
phần đất nước.
Đất nước không chỉ là núi sông, rừng, biển, không chỉ là
lịch sử dựng nước và giữ nước mà Đất nước còn được kết tinh và tồn tại
trong sự sống của mỗi cá nhân, mỗi chúng ta hôm nay. Quả vậy, sự sinh thành của
mỗi cá nhân đều có cội nguồn sâu xa từ dân tộc và đợc thừa hưởng thành quả
vật chất và tinh thần do bao thế hệ tạo dựng lên. Nhưng sự sống của mỗi cá
nhân chỉ có thể tồn tại và có ý nghĩa trong sự hài hòa với những cá nhân khác
và toàn thể cộng đồng: Khi hai đứa cầm tay
….. Đất nước vẹn toàn to lớn.
Đất nước được
trường tồn qua sự tiếp nối của các thế hệ và các thế hệ mai sau sẽ đưa đất nước
tới sự phát triển xa hơn, đến “Những tháng ngày mơ mộng”.
Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện một chân
lí giản dị mà sâu sắc về đất nước. Đất nước không chỉ là một khách thể ở
ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, trong sự sống mỗi người. Đất
nước trở nên hết sức thiêng liêng mà gần gũi với mỗi người. Chân lí ấy một
lần nữa được tác giả nhắc lại như lời nhắn nhủ tha thiết “Em ơi em, đất nước
là máu xương của mình”. Từ đó dẫn đến lời nhắc nhở về trách nhiệm thiêng liêng
của mỗi người với đất nước.
“Phải biết gắn bó và
san sẻ
Phải biết hóa thân
cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước
muôn đời”.
Đề 2. Vì sao có thể nói tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã qui tụ mọi
cách nhìn và đưa đến những phát hiện độc đáo của tác giả về đất nước ?
Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã được tác giả phát
biểu trực tiếp trong phần hai của đoạn thơ “Đất nước” nhưng đó cũng chính là
tư tưởng bao trùm, là điểm xuất phát và nơi quy tụ mọi cảm xúc và phát hiện
của tác giả về đất nước trong đoạn thơ.
Đất nước được cảm nhận trong chiều rộng của không gian,
trong vẻ đẹp và sự phong phú của núi sông với những thắng cảnh kì thú. Nhưng
điều quan trọng là tác giả đã phát hiện ra sự gắn bó sâu xa, mật thiết của
thiên nhiên đất nước với cuộc sống và số phận của nhân dân, của vô vàn những
con người bình dị:
Những người
vợ nhớ chồng góp cho đất nước những núi Vọng phu
Cặp vợ chồng
yêu nhau góp nên hòn Trống mái...
Người học
trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút
non Nghiên.
Nhìn vào thiên nhiên đất nước, nhà thơ đã “đọc” được
tâm hồn, những ước vọng và sự gửi gắm của bao thế hệ con người. Từ đó tác giả
cảm nhận được một chân lí hiển nhiên và sâu xa:
Ôi đất nước, sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Khi nói về lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc tác giả không nêu các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà mọi người
đều nhớ, mà trước hết nhắc đến vô vàn những con người bình thờng, vô danh,
những người “không ai nhớ mặt đặt tên, họ đã sống và chết, giản dị, bình tâm.
Nhng chính họ đã làm ra đất nước”.
Đất nước còn được cảm nhận trong chiều sâu của văn hóa,
lối sống, phong tục, của tâm hồn và tính cách dân tộc. Để nói về những phơng
diện đó, Nguyễn Khoa Điềm cũng lại tìm về với nguồn phong phú của văn hóa dân
gian. Nhân dân không chỉ là người sáng tạo lịch sử, tạo dựng nên các giá trị
vật chất mà còn là người sáng tạo và lưu truyền các giá trị văn hóa, tinh
thần của dân tộc. Họ đã “truyền lửa qua mỗi ngôi nhà, truyền giọng điệu mình
cho con tập nói”. Còn vẻ đẹp tâm hồn dân tộc đã được kết đọng trong kho tàng
phong phú, mĩ lệ của ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết và cổ tích. Bởi vậy
Nguyễn Khoa Điềm đã rất có lí khi nêu một định nghĩa “Đất nước của ca dao thần
thoại” tiếp liền sau mệnh đề “Đất nước của nhân dân”.
Đề 3. Đoạn thơ có sử
dụng nhiều chất liệu của văn học dân gian. Hãy nêu một số ví dụ cụ thể và nhận
xét về cách sử dụng chất liệu dân gian của tác giả.
Đoạn thơ đã sử dụng đậm đặc chất
liệu văn hóa dân gian trong đó có văn học dân gian. Từ các truyền thuyết vào
loại xa xưa nhất của dân tộc ta như Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng, Hùng
Vơng đến truyện cổ tích, nh Trầu Cau, đặc biệt là nhiều câu ca dao, dân ca,
của nhiều miền đất nước:
Ví dụ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” Là từ
câu ca dao:
Tay bưng chén muối
đĩa gừng
Gừng cay muối mặn
xin đừng quên nhau
“Dạy anh
biết yêu em từ thuở trong nôi” gợi nhớ đến câu ca dao:
“Yêu em từ thuở
trong nôi
Em nằm em khóc anh
ngồi anh ru”
“Biết quí trọng công
cầm vàng những ngày lặn lội” là được rút từ câu ca dao:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng.
Chất liệu
văn học dân gian đã được tác giả sử dụng vào đoạn thơ một cách linh hoạt và
sáng tạo. Không lặp lại hoàn toàn các câu ca dao, dân ca, nhà thơ thờng chỉ
dùng một hình ảnh hoặc một phần của các câu ca đó để đa vào tạo nên câu thơ
của mình. Các truyền thuyết và truyện cổ tích cũng được sử dụng theo cách gợi
nhắc tới bằng một hình ảnh hoặc tên gọi. Tác giả vừa đa người đọc nhập cả vào
môi trường văn hóa, văn học dân gian đồng thời lại thể hiện được sự đánh giá,
cảm nhận được phát hiện của tác giả về kho tàng văn hoá tinh thần ấy của dân
tộc.
4. SÓNG – Xuân
Quỳnh
A. Vài nét về thơ XQ:
Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ chị
là tiếng lòng của một tâm hồn tươi trẻ, luôn khát khao tình yêu, “nâng niu chi
chút” từng hạnh phúc bình dị đời thường. Trong số các nhà thơ hiện đại Việt
Nam, Xuân Quỳnh xứng đáng được gọi là nhà thơ tình yêu. Chị viết nhiều, viết
hay về tình yêu trong đó “Sóng” là một bài thơ đặc sắc.
Đặc điểm nổi bật trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là chị
vừa khát khao một tình yêu lý tưởng và hướng tới một hạnh phúc bình dị thiết
thực: “Đến Xuân Quỳnh, thơ hiện đại Việt Nam mới có một tiếng nói bày tỏ trực
tiếp những khát khao tình yêu vừa hồn nhiên chân thực, vừa mãnh liệt sôi nổi
của một trái tim phụ nữ.
“Sóng” là bài thơ đã kết tinh những gì sở trường của hồn
thơ Xuân Quỳnh. Nhưng thành công đáng kể nhất là Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng
sóng để diễn tả những cảm xúc vừa phong phú phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của
một trái tim phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương.
B. Nội dung đọc hiểu:
1. Xuất xứ:
- “Sóng” (được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”- 1968) là bài thơ
tiêu biểu cho hồn thơ của Xuân Quỳnh. Bài thơ
bộc lộ một khát vọng vừa hồn nhiên, chân thật vừa da diết, sôi nổi về
tình yêu mãnh liệt rộng lớn và vĩnh hằng của trái tim người phụ nữ.
2. Ý nghĩa hình tượng sóng:
- “Sóng” là hiện tượng ẩn dụ của tâm trạng người phụ nữ đang yêu. Sóng là
một sự hòa nhập và phân tán của nhân vật trữ tình “ em”. Nhà thơ đã sáng tạo
hình tượng sóng khá độc đáo nhằm thể hiện những cung bậc tình cảm và tâm trạng
của người phụ nữ đang yêu.
- Cả bài thơ được kiến tạo bằng thể thơ 5 chữ với một âm hưởng đều đặn,
luân phiên như nhịp vỗ của sóng.
3. Trạng thái tâm lý đặc biệt của người phụ nữ đang yêu
(khổ 1+2):
- Sóng được nhà thơ hình tượng hóa, thể hiện những trạng thái tâm lý đặc
biệt của người phụ nữ đang yêu:
Dữ dội và
dịu êm
Ồn ào và
lặng lẽ
- Sóng thể hiện khát vọng vươn tới, tìm kiếm trong tình yêu của người phụ
nữ:
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng
tìm ra tận bể
- Đối diện
với biển, nhà thơ liên tưởng đến sự bất diệt của khát vọng tình yêu. Biển muôn
đời cồn cào xáo động, như tình yêu muôn đời vẫn “bồi hồi trong ngực trẻ” (Ôi con sóng ngày xưa. Và ngày sau vẫn thế.
Nỗi khát vọng tình yêu. Bồi hồi trong ngực trẻ).
- Người
con gái trong bài thơ muốn cắt nghĩa nguồn gốc của sóng để tìm lời giải đáp cho
câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình:
Trước muôn
trùng sóng bể
Em nghĩ về
anh, em
Em nghĩ về
biển lớn
Từ nơi nào
sóng lên?
Nhưng tình yêu muôn đời vẫn là điều bí ẩn, không dễ cắt nghĩa. Xuân Quỳnh thú nhận sự
bất lực ấy một cách rất dễ thương: “Em
cũng không biết nữa. Khi nào ta yêu nhau”.
4. Nỗi nhớ trong tình yêu (khổ 5):
- Người con gái đang yêu nhờ sóng diễn tả nỗi nhớ trong lòng mình:
Con sóng
dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
- Nhân vật em còn trực tiếp diễn tả nỗi nhớ da diết của mình: “Lòng em nhớ đến anh. Cả trong mơ còn thức”.
=> Nỗi nhớ dâng trào, tràn ngập trong không gian và thời gian, nỗi nhớ
hiện về trong ý thức và trong tiềm thức.
5. Sự thủy chung (khổ 6+7):
- Hình tượng sóng còn là sự biểu hiện của một tình yêu thiết tha, bền chặt,
thủy chung của người phụ nữ:
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu
ngược về phương nam
Nơi
nào em cũng nghĩ
Hướng
về anh - một phương
- Hình tượng sóng là minh chứng cho một tình yêu chân chính, một tình yêu
vượt qua mọi cách trở để đến bên nhau vớimột niềm tin mãnh liệt:
Ở ngoài kia
đại dương
Trăm ngàn
con sóng đó
Con nào
chẳng tới bờ
Dù muôn vời
cách trở.
6. Khát vọng tình yêu
vĩnh hằng: (khổ 8+9):
- Người con gái khi yêu cũng bộc lộ một thoáng lo âu:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.
- Nhà thơ ý thức được sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh
phúc nên có khát vọng hóa thân vào sóng
để được trường tồn, bất diệt:
Làm sao tan
được ra
Thành
trăm con sóng nhỏ
Giữa
biển lớn tình yêu
Để
ngàn năm còn vỗ
C. Kết luận:
- Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh
là tiếng nói trái tim của những con người đang yêu, biết yêu và biết giữ mãi
tình yêu cao đẹp của mình.
- Sóng là
bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ
Xuân Quỳnh giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn duyên dáng vừa ý nhị
sâu xa, mãnh liệt mà hồn nhiên, sôi nổi mà đằm thắm. Sau này nếm trải nhiều cay
đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh còn phơi phới bốc men say nhng khát
vọng tình yêu luôn khắc khoải trong trái tim nữ thi sĩ. Trái tim “mãi yêu anh”
ngay cả khi ngừng đập, bởi cái chết có thể kết thúc một cuộc đời chứ không thể
kết thúc một tình yêu.
III. CÂU HỎI THAM KHẢO
Đề 1. Hình tượng “sóng” trong bài
thơ được miêu tả như thế nào ?
Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái yêu
đương, là sự hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. Cùng với
hình tượng sóng, bài thơ này còn có một hình tượng nữa là em - cái tôi trữ
tình của nhà thơ. Tìm hiểu hình tượng “sóng”, không thể không xem xét nó trong
mối tương quan với “em”.
Hình tượng sóng trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào
dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên
tiếp, triền miên, vô hồi vô hạn. Đó là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập,
khao khát tình yêu vô hạn, đang rung lên đồng điệu, hòa nhịp với sóng biển.
Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể
vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng, những cung bậc tình cảm khác nhau
trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. Mỗi trạng
thái tâm hồn cụ thể của người con gái đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương
đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.
Đề 2. Qua bài thơ Sóng, vẻ đẹp tâm hồn của ngời phụ nữ
trong tình yêu đợc thể hiện nh thế nào ?
Qua bài thơ Sóng, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn
của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ
những khao khát yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng
mình. Người phụ nữ ấy thủy chung, nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa.
Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, để
“tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung. Đó là những nét mới mẻ, “hiện
đại” trong tình yêu.
Tâm hồn người phụ nữ đó giàu khao khát, không yên lặng:
“vì tình yêu muôn thuở - Có bao giờ đứng yên” (Thuyền và biển). Nhưng đó cũng
là một tâm hồn thật trong sáng, thủy chung vô hạn. Quan niệm tình yêu như vậy
rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong tâm thức dân tộc.
Đề 3: Phân tích bài
“Sóng” của Xuân Quỳnh
I.Đặt vấn đề
Biển và sóng là những đề tài quen thuộc của thơ ca. Mỗi
nhà thơ nhìn biển theo cảm hứng riêng của mình. V.Hugo trong “Đêm đại dương”
khi đứng trước biển cả mênh mông sâu thẳm, đã nghe được”Những tiếng người
tuyệt vọng kêu la”. Puskin thì liên tưởng những đợt sóng thét gào với nỗi cay
đắng trong tình yêu. Xuân Quỳnh tìm được những suy nghĩ
tinh tế và thú vị về tình yêu qua hình ảnh những con sóng biển.
II.Giải
quyết vấn đề
1.Sóng biển
và tình yêu
Tác giả đã nhìn thấy sóng qua hai tính cách gần như đối
lập nhau “dữ dội”, “ồn ào” với “êm dịu”, “lặng lẽ”. Đấy là hình ảnh thực tế về
sóng biển. Nhưng nhà thơ còn hình dung ra sóng như thể một con người, con
người của suy tư, tìm kiếm:
Dữ dội và êm
dịu………. Sóng tìm ra tận bể
Từ hình ảnh sóng đi ra khơi xa rồi sóng lại vỗ vào bờ,
nhà thơ liên tưởng tới tình yêu:
Ôi con sóng
ngày xa…………. Bồi hồi trong ngực trẻ
Đây là một liên tưởng thú vị, bởi vì cũng như sóng biển
tự bao giờ cho tới nay, tình yêu vẫn luôn luôn là nỗi khao khát của con người.
Nếu tình yêu là nỗi khát vọng của con người thì đối với tuổi trẻ, tình yêu
càng trở nên thân thiết đến nỗi có thể tuổi trẻ gắn liền với tình yêu. Đấy phải
chăng là điều mà Xuân Diệu từng phát biểu:
Làm sao sống
được mà không yêu /Không nhớ không thương một kẻ nào.
2.Tình yêu của anh và em
Cả đoạn thơ trên nói về sóng biển và tình yêu một cách
chung, như một quy luật của cuộc sống. Đến đoạn thơ tiếp theo, tình yêu trở
nên cụ thể, đó là tình yêu của anh và của em. ý thơ phát triển rất hợp lý, tứ
thơ sâu sắc làm nên dáng nét suy tư trong thơ của Xuân Quỳnh:
Trước muôn
trùng sóng bể ……….. Từ nơi nào sóng lên
Tại sao “trước muôn trùng sóng bể”, “em nghĩ về anh, em”
?
Thắc mắc về biển cả, chính là thắc mắc về tình yêu. Bởi
vì tình yêu chính là thắc mắc về người mình yêu. Đó là một hiện tượng tâm lý
thông thường trong tình yêu - yêu có nghĩa là hiểu rất rõ về người mình yêu và đồng thời người yêu vẫn là một ẩn số kỳ thú đối với mình. Cũng
như vậy, người đang yêu rất hiểu về tình yêu nhưng đồng thời vẫn luôn luôn
tự hỏi không biết thế nào là tình yêu. ở đây, nhà thơ Xuân Quỳnh đã liên hệ tâm
lý ấy bằng hình tượng nghệ thuật hồn nhiên, dễ thương và gợi cảm:
Sóng bắt đầu
từ gió ……… Khi nào ta yêu nhau.
Yêu, rõ ràng là thế mà đôi khi cũng
không biết nó là gì. Nó cụ thể mà mơ hồ, nó gần gụi mà xa xôi, nó đơn giản mà
phức tạp. Nó là con sóng. Nhà thơ lại trở về nghệ thuật nhân hóa:
Con sóng dưới lòng
sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Tưởng tượng đã giúp nhà thơ lý
giải một hiện tượng của thiên nhiên: con sóng nhớ biển nhớ bờ cho nên ngày đêm
liên tục vỗ vào bờ. Đâu đây có hình ảnh ý thơ của Xuân Diệu:
Bờ đẹp
đẽ cát vàng/Thoai thoải hàng thông
đứng/Như lặng lẽ mơ màng/Suốt ngàn năm bên sóng (Biển)
Cũng như vậy, yêu có nghĩa là nhớ. Nhớ cả trong mơ cũng
như khi còn thức. Yêu anh có nghĩa là nghĩ đến nay, luôn luôn nghĩ đến anh:
Lòng em nghĩ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Phải chăng đó là điều mà Nguyễn Bính đã thể hiện một cách
duyên dáng qua hình thức thơ dân dã của mình:
Thôn Đoài
ngồi nhớ thôn Đông
Một người
chín nhớ mười mong một người
Cái nhớ của tình yêu chính là nỗi khát khao vô hạn, là
nỗi nhớ không nguôi:
Uống xong
lại khát là tình
Gặp rồi lại
nhớ là mình của ta
(Xuân Diệu)
Những liên tưởng trên đây giúp ta thấy cách diễn tả
của Xuân Quỳnh chân thật và hồn nhiên
biết chừng nào. ở thơ của Xuân Quỳnh có sự liên kết giữa cái hồn nhiên chân
thật ấy với chất suy tư một cách tinh tế và chặt chẽ làm cho bài thơ ánh lên
vẻ đẹp của một tâm hồn suy nghĩ.
Người ta nói yêu nhau tức là cùng nhau nhìn về một hướng.
Còn nhà thơ Xuân Quỳnh của chúng ta thì lại bảo:
Dẫu xuôi về phương
Bắc
Dẫu ngợc về phương
Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một
phương
Hình ảnh “hướng về anh một phương” làm ta nhớ tới mấy
câu ca dao:
Quay tơ thì
giữ mối tơ
Dẫu trăm
nghìn mối vẫn chờ mối anh
Đó phải chăng, từ nỗi nhớ trong tình yêu, nhà thơ muốn
làm nổi bật tình cảm thủy chung duy nhất của người con gái. Dù đi đâu, dù xuôi
ngược bốn phương, tám hướng, thì em cũng chỉ hướng về một phương của anh,
có anh, cho anh. Nhà thơ lại trở về với hình ảnh những con sóng để làm điểm tựa
cho ý tưởng của mình. Bởi vì, dù có xa vời cách trở bao nhiêu, con sóng vẫn
tới được bờ:
Ở ngoài kia đại
dương.....
Dù muôn vời cách trở
3.Tình yêu
và cuộc đời
ở trên, tác giả liên tưởng sóng với tình yêu. Đoạn thơ
cuối cùng so sánh cuộc đời và biển cả:
Cuộc đời tuy dài
thế........
Mây vẫn bay về xa
Tình yêu là một biểu hiện của cuộc đời. Tình yêu chính là
cuộc sống. Cho nên đoạn thơ cuối cùng mở rộng tứ thơ - tình yêu không phải chỉ
là của anh và em mà tình yêu phải hòa trong biển lớn nhà thơ gọi là Biển lớn
tình yêu:
Làm sao tan được ra
Thành trăm con sóng
nhỏ
Giữa biển lớn tình
yêu
Để ngàn năm còn vỗ
III.Kết luận
Bài thơ trữ tình tình yêu nhưng không quá hời hợt, dễ
dãi. Từ âm điệu cho tới tứ thơ. “Sóng” toát lên phong cách của Xuân Quỳnh. Bài
thơ giúp ta hiểu sâu sắc ý nghĩa tình yêu trong cuộc đời.
Dường như biển cả bao la luôn luôn thu hút cảm hứng của
Xuân Qùnh. Biển là tình yêu, sóng là nỗi nhớ, và cả sóng biển sẽ giúp nhà thơ
xua đi bao điều cay cực:
Biển sẽ xóa đi bao nhiêu cay cực
Nước lại dềnh trên sóng những lời ru.
5. ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA
(Thanh Thảo)
Theo lí thuyết
văn học liên văn bản, bất cứ văn bản nào cũng là một liên văn bản, không
phụ thuộc vào việc tác giả của văn bản có ý thức được điều đó hay không. Đọc Đàn
ghi ta của Lor-ca, có thể thấy, mỗi từ, mỗi chi tiết, hình ảnh và cả hình
tượng trung tâm trong đó đều là đầu mối của một quan hệ giao tiếp nghệ thuật
rộng lớn, mà nếu thiếu tri thức về các văn bản (hiểu theo nghĩa rộng) có trước
đó thì độc giả không thể cảm nhận được, hiểu được ý nghĩa của chúng. Lor-ca là
nhà thơ như thế nào? Đàn ghi ta của ông có cái gì đặc biệt? Vầng trăng, yên
ngựa, bước chân lang thang, tiếng hát nghêu ngao, bãi bắn, tấm áo choàng bê bết
đỏ, giọt nước mắt vầng trăng trong đáy giếng, lá bùa cô gái Di-gan,... là những
cái gì đây ? Đó có thể là những câu hỏi thầm vang lên trong tâm trí độc giả
bình thường khi tiếp nhận bài thơ. Nếu không chịu bỏ cuộc trên hành
trình giải mã văn bản này và quyết tìm tới những văn bản khác đã làm nền cho nó
(theo sự chỉ dẫn của các câu thơ trong bài), độc giả sẽ thực sự được đền bù.
Trước mắt chúng ta lúc đó sẽ là một thế giới thi ca chói loà của thiên tài
Lor-ca, là bức tranh bi tráng về thân phận người nghệ sĩ trong một thời đại
biến động như bão táp, là vẻ đẹp lung linh của nghệ thuật vượt lên trên mọi sự
đe doạ của các thế lực bạo tàn, hung hiểm. Từ những điều vừa thấy, nhìn ngược
lại văn bản thơ đã tạo cơ hội mở rộng chân trời hiểu biết cho mình - bài Đàn
ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo - ta sẽ nhận ra từ đây một sự cộng hưởng
của những khát vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ
thuật thơ Lor-ca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của
những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp.
Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc
thù, nhất là không gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi
lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn
phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không
ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc :
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
...
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy ? -
Trước hết là nhờ "đàn ghi ta của Lor-ca". Tất nhiên, ở đây ta không
nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lor-ca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất
sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lor-ca, là bản mệnh của
Lor-ca. Đọc thơ Lor-ca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải
miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi
nồng nàn, khi buốt lạnh,... Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương
sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ
An-đa-lu-xi-a, nơi ngày xưa từng được xem là "một trong những vương quốc
đẹp nhất của châu Phi" do người ả-rập dựng nên. ở đó có những chàng hiệp
sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da
nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một
màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta - âm thanh
nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim
bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong
bài Đàn ghi ta)... Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca
để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của
chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự "trích
dẫn". Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu
tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo "nguồn gốc", vốn cũng là một
biểu tượng đặc biệt trong thơ Lor-ca - người mê dân ca, "chàng hát rong
thời trung cổ", "con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a". Cây đàn từ chỗ
mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian,
rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh
Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành
hình tượng "song trùng" với hình tượng Lor-ca. Cây đàn cất lên tiếng
lòng của Lor-ca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là
linh hồn, và cao hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những
văn bản thơ trước đây của Lor-ca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn
làm sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật,
ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào
đây một "văn bản" khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu
1936 - cái "văn bản" đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát
xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt
cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý : Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
...
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị)
trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó.
Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lor-ca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với
sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác với nhau của các văn bản (đã nói). Chính
nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lor-ca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha
thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ
Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh
Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có
trong thơ Lor-ca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lor-ca
và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ những
tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ khác là tiếng
ghi ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng - máu chảy, sẽ
bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền
với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn. Tiếng đàn giống
như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ
tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng
có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng
ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về
tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là
sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lor-ca và là sinh quyển văn hoá, sinh
quyển chính trị - xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lor-ca. Rồi màu đỏ
gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó
không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh
rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau : áo choàng bê bết đỏ - tức là
tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ biết hát nghêu
ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị
điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi
như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi
này). Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca
(mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca
An-đa-lu-xi-a) như hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng
đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn
tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã
tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên
của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc
sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó
không chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng
ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự
trở thành "vấn đề" trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý
nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ li-la
li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhoè
đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn
xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh
thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài
thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế.
Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lor-ca được kể lại một cách rành
mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái
người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ
thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và
khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào
người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể
lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la
chứ không phải là cái gì khác. Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc,
nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm
kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật phương Tây chăng ? Hay đó là âm thanh lời
đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc,
hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay
người nghệ sĩ ?... Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng !
Ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì
diệu của thơ Lor-ca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói
chung, vốn được sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của
các nghệ sĩ :
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la...
Câu thơ không ai chôn cất tiếng
đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông
nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca trong bài Ghi nhớ - lời thỉnh cầu đã
được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. Không, ở đây
không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các
bài thơ "chân dung" hay "ai điệu", nhằm làm nổi bật những
tứ thơ "mới" mang tính chất "ăn theo". Chỉ có sự đau đớn
trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một
giếng sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lor-ca - một ý
nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó
vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở - đã không được thực
hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra một chân
lí : không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được ! Đây
là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn
vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là
tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo
ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn
nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác
xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang
ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà
trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách
diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai chôn được !
Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù
nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm
đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết.
Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp
điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và
lắng sâu. Điều này tuân theo đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm (tạm quy
về phạm trù "nội dung") mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó
tuân theo lô gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái chết là sự sinh
thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng
hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn,... Trong muôn nghìn
điều mà con người phải nghĩ lại khi đã "khôn dần lên", sự hiện diện
của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều
nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo
với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng
một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian
vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó
hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lor-ca đang bơi
sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi
vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc
biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại...
Trên thực tế, cái
chết của Lor-ca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Frăng-cô gây nên. Nhưng
nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lor-ca không phải là trường hợp nghệ sĩ
đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái
đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong
định mệnh của họ ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật
gọn nghẽ, "nhẹ nhõm" và "mênh mang" (ta hãy chú ý tới điểm
rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang).
Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lor-ca, khi đường chỉ
tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con
người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được
xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-gan trao cho. Chàng,
dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó "chìm lỉm" (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy
nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt - cái lặng
yên của sự "đốn ngộ", cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời
nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của
mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư
vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng
du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lor-ca vẫn
sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa
vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp
nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết
người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên
núi Sọ. Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của
Thanh Thảo[1] !...
Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng
nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh,
biểu tượng lấy từ nhiều "văn bản" khác nhau vào một tổng thể hài hoà.
Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng
yên nữa. Vậy mà, nhờ được "tắm" trong một "dung môi"
cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng
trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những
cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần
vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ
ca làm sao có thể chết ? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó
gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc
tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động,
vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư ? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một
thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la li-la li-la...
Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng
trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả
đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc,
cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế.
Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái
chết, sự lặng yên, "lời" vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có
nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong
trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang
làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận
dụng phương thức của nhạc - cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan -
để thấu nhập bề sâu, "bề xa"
của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù
không nhất thiết phải quy Đàn ghi ta của Lor-ca vào loại hình thơ nào, ta vẫn
thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo
muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lor-ca -. cây đàn thơ lạ lùng trong
nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi
kịch
D. MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH THỂ LOẠI KÍ, TUỲ BÚT:
1. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG
ĐÀ - Nguyễn Tuân
Kiến thức cơ bản:
I. Tác giả:
- Nguyễn Tuân (1910-1987) quê ở làng Nhân Mục,
thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân , Hà Nội. Nguyễn
Tuân sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Ông là người tính
tình phóng khoáng và giàu lòng yêu nước.
-Nguyễn Tuân cầm bút từ đầu những năm 30 của thế
kỉ XX. Ông để lại một sự nghiệp văn học vô cùng phong phú, độc dáo và đầy tài
hoa. Với những đóng góp lớn cho văn học nghệ thuật, năm 1996, Nguyễn Tuân được
nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Các tác phẩm tiêu biểu: Một chuyến đi, Vang bóng
một thời, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi...
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảch sáng tác: Người lái đò Sông Đà
là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt là chuyến đi
thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 tuỳ bút của Nguyễn Tuân in trong tập
Sông Đà xuất bản năm 1960.
Lần xuất bản đầu tiên, bài này có tên là Sông Đà, năm
1982 khi cho in lại trong tập 2 bộ Tuyển tập Nguyễn Tuân, tác giả có sửa đổi
tên thành “Người lái đò sông Đà”
2. Nội dung:
2.1. Con sông
Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân trở thành một sinh thể vừa hung bạo vừa trữ
tình.
a. Sông Đà - con sông hung bạo, nham
hiểm: Nhà văn đã không quản ngại công
phu quan sát, tìm hiểu kĩ càng, vận dụng biện pháp nhân hoá để miêu tả sự hung
bạo ấy trên nhiều dáng vẻ:lúc thể hiện trong phạm vi một lòng sông hẹp, như
chiếc yết hầu bị đá bờ sông chẹt cứng; khi thì lại hiện ra trong khung cảnh
mênh mông hàng cây số của một thế giới đầy gió gùn ghè, đá giăng đến chân trời
và sóng bọt tung trắng xoá; khi thì mặt thác với dòng nước như hùm beo lồng
lộn; khi thì là những hòn đá sông lập lờ cạm bẫy, lúc lại là những cái hút nước
xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu. Đến âm thanh của sóng thác sông Đà
cũng luôn luôn thay đổi: mới oán trách nỉ non đã chuyển sang khiêu khích, chế
nhạo rồi đột ngột rống lên, thét gầm lên...Bên cạnh biện pháp nghệ thuật nhân
hoá, nhà văn còn mượn ở các ngành, các bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để làm
nên hàng loạt liên tưởng, so sánh, tưởng tượng rất kì lạ , bất ngờ như đoạn
miêu tả cái hút nước quãng Tà Mường Vát “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái
bị sặc” lại “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” hay như sự tưởng tượng xuất
thần của nhà văn “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh
khối đúc dày...”
Nguyễn
Tuân nói nhiều đến sự hung bạo của một con sông Đà đầy đá nổi, đá chìm và thác
dữ. Nhưng ông vẫn cho chúng ta nhận
thấy, bên cạnh, và cả bên trong sự hung bạo ấy, hình ảnh con sông vẫn nổi bật
lên như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất
nước.
b.
Sông Đà- một dòng chảy trữ tình
Dòng Đà giang chỉ thực sự trữ tình khi đã chảy qua Chợ Bờ,và
đã để lại những hòn đá thác xa xôi trên thượng nguồn Tây Bắc.
- Hình dáng: Sông Đà mềm mại, duyên dáng
như một thiếu nữ kiều diễm: tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình..
- Màu sắc: biến đổi theo mùa rất sinh động. Mùa Xuân nước
sông Đà xanh màu xanh ngọc bích, rồi cứ
mỗi độ thu về nó lại “lừ lừ chín đỏ”
- Không gian thơ mộng mơ màng
·
lặng tờ / tịnh không một
bóng người
·
bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử, phảng phất nỗi niềm cổ tích…
- Cảnh vật: ngô
non/ cỏ gianh đồi búp đãm sương đêm/ đàn hươu thơ ngộ/ đàn cá vọt lên bụng
trắng như thoi
Tóm lại: Con sông mang vẻ đẹp thơ mộng, kì thú, tự nhiên như
chẳng vướng trần, khơi nhiều cảm xúc cho con người -> như một cố nhân.
* Kết luận:
- Đặc điểm sông Đà: vừa hung bạo, nham hiểm vừa thơ mộng, trữ tình.
- Kết tinh phong cách Nguyễn Tuân: Khám phá sông Đà bằng kiến thức của
nhiều lĩnh vực; tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ. Có thể thấy nhà văn đã sử dụng
một loạt biện pháp nghệ thuật để mô tả thiên nhiên: nới rộng cấu trúc câu văn,
nghệ thuật so sánh độc đáo, biện pháp nhân hoá tài tình. Đặc biệt cách liên tưởng
đẹp, bất ngờ, táo bạo cùng với nhiều chi tiết gợi cảm.
- Con người nhà văn: tình yêu với thiên nhiên, non sông đất nước.
2.2. Hình tượng ông lái đò :
Người lái đò là một người lao động, nhưng là nghệ sĩ trong lao động, hơn
nữa là một dũng tướng trong cuộc thuỷ chiến thường xuyên với thác nước sông Đà - - Đó là một con người bình thường, hiền
lành với những nét phát hoạ: “cái đầu bạc...cái đầu quắc thước ấy đặt trên
một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tay ông lêu nghêu
như một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại...”
-.Đó là một con người dũng cảm,
say mê sông nước, say mê những cảm giác mạnh:
+ Trên dòng
thác dữ, ông đò hiện lên hiên ngang, mưu trí, ngoan cường. “Ông đã nắm chắc
binh pháp của thần sông, thần đá”, “ông đã thuộc lòng con sông như lòng bàn
tay mình”. Thật là một nghệ sĩ sông nước.
+ Ông đò đối
đầu với thác ghềnh hung bạo mà bình tĩnh, ung dung. Xử lí các tình huống nguy
hiểm vừa dũng cảm, quyết liệt, vừa thông minh, táo bạo… Vậy mà sau khi vượt
thác, ngừng chèo, lại ung dung “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và
toàn bàn tán về cá anh vũ…”
- Lưu ý những nét
riêng của ông lái đò bị tỉnh lược gần hết: không tên, không tiểu sử, rất ít
nét ngoại hình… Điều này không phải ngẫu nhiên. Nhà văn muốn dựng lên một chân
dung vô danh để chứng tỏ rằng những con người như thế không phải là đặc biệt,
có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trong cuộc sống hàng ngày. Khi chở đò , ông là nhà
nghệ sĩ, là dũng tướng tài ba ( Đưa con thuyền vượt dòng sông dữ là cả một
nghệ thuật cao cường, đầy tài hoa, trí dũng. Chỉ một chút lỡ tay, loá mắt là
phải trả giá bằng mạng sống của mình) .Kết thúc công việc ông lại là người bình
thường Vẻ đẹp và chủ nghĩa anh hùng được
thể hiện trong con người bình thường, làm công việc bình thường là chở đò trên
sông.Điều đáng chú ý là con người bình thường ấy lại được ví với chất vàng mười đẹp đẽ và quý báu.
3. Nghệ thuật:
- Đặc
điểm nổi bật của tuỳ bút Nguyễn Tuân là uyên bác và tài hoa.Ông vận dụng kiến
thức lịch sử, địa lí, hội hoạ, điện ảnh, quân sự thể thao...Ông luôn có cảm
hứng đặc biệt trước những hiện tượng phi thường , gây cảm giác mạnh, say mê khá
phá và thưởng thức cái đẹp.
- Nhà
văn dùng các biện pháp nhân hoá, so sánh, biến hoá trong cách đặt câu, dùng từ
là cho ngôn ngữ trong tác phẩm vừa có giá trị tạo hình vừa gợi cảm phong phú.
3. Kết luận: Người lái đò sông Đà chính là khúc hùng ca ca
ngợi con người, ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa
con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông
hung dữ . Đấy chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhâ dân Tây Bắc
và của những người lao động nói chung.
Câu hỏi:
1/ Nguyến
Tuân đã phát hiện ra những đặc điểm nào của con sông Đà? Những thủ pháp nghệ
thuật đặc sắc được Nguyễn Tuân vận dụng
để làm nổi bật những phát hiện của mình.
2) Phân tích hình ảnh người lái đò trong “Người
lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân).
3) Nguyễn Tuân đã tạo hồn và thơ cho con sông Đà.
Chứng minh nhận định trên.
2. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
(trích) Hoàng Phủ Ngọc Tường
A.Kiến thức
cơ bản:
I. Tác giả:Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Tiểu sử: + Sinh 1937 tại TP.
Huế
+ Quê gốc ở Quảng trị, sống, học tập và hoạt động cách mạng ở Huế ->
cuộc đời tác giả gắn liền với Huế nên
tình cảm, tâm hồn thấm đẫm nền văn hoá của mảnh đất này.
- Sự nghiệp văn học:
+ Phong cách nghệ thuật:
* Là cây bút uyên bác, giàu
chất trí tuệ.
* Tài hoa, trí tưởng tượng phong
phú lãng mạn đậm chất thơ.
* Lối viết hướng nội, xúc tích,
có chiều sâu văn hoá, cảm hứng nhân văn.
+ Tác phẩm chính: Ngôi sao trên
đỉnh Phu văn Lâu(1971), Rất nhiều ánh lửa(1979), Ai đã đặt tên cho dòng
sông?(1986)...
II. Tác phẩm
1- Hoàn cảnh ra đời:Bài bút kí Ai
đã đặt tên cho dòng sông? viết năm 1981, in trong tập sách cùng tên .Bài
bút kí có ba phần, đoạn trích nằm ở phần thứ nhất của tác phẩm.
2 Nội dung:
1. Sông
Hương vùng thượng nguồn
-Khi
qua dãy Trường Sơn hùng vĩ, Sông Hương tựa như “một bản tình ca của rừng già”
với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, lúc
“mãnh liệt vượt qua ghềnh thác”, khi “ cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực
sâu”, lúc “dịu dàng say đắm giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
-
Bằng biện pháp nhân hoá sông Hương hiện ra tựa như “cô gái Di- gan phóng khoáng
và man dại” với một “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”, dòng
sông như một con người mà phần tâm hồn sâu thẳm của nó đã đóng kín lại ở của
rừng.
à: sông Hương vùng thượng
lưu toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính.
2. Sông
Hương nhìn trong mối quan hệ với kinh thành Huế:
- Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung
thuỷ của đất cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và
nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ
trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích
thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
-Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và
ngoại vi thành phố bộc lộ nét tài hoa và lịch lãm trong lối hành văn của tác
giả. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “ cô gái đẹp ngủ mơ
màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh
thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát tuổi thanh xuân trong
sự “chuyển dòng liên tục ”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “’ vẽ một
hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm
vang ”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”...
Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm
như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “ những phản
quan nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng , chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi
phía Tây nam thành phố và mang “vẻ đẹp trầm mặc” khi qua bao lăng tẩm, đền đài
mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến
lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “ tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân
nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà ”...
Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và
tài hoa đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với
thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.
* Nhận xét: Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của HPNT
như 1 cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu theo
tiếng gọi vang vọng từ trái tim. Với NT so sánh cân đối, hài hoà đậm chất thơ,
với sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng, nhà văn đã khắc hoạ được vẻ đẹp dòng
sông huyền ảo, lung linh sắc màu, người đọc đặc biệt ấn tượng về vẻ đẹp trầm
mặc, cổ kính của Sông Hương gắn với thành quán lăng tẩm của vua chúa thủa trước
3. Sông
Hương khi chảy vào thành phố Huế:
Như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân
yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa
những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “ kéo một nét
thẳng thực yên tâm theo hướng Tây nam- đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất
nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “ vâng”không
nói ra của tình yêu ”.Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình , sông
Hương cũng giống như sông Xen của Pa -ri, sông Đa- nuýp của Bu-đa-pét, sông
Nê-va của Lê-nin-grát ...nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông
Hương được cảm nhận dưới nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông
Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm
nhận âm nhạc, sông Hương đẹp như điệu slow
chậm rãi, sâu lắng trữ tình và , với cái nhìn say đắm của một trái tim đa tình,
sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ.Điều này được diễn tả trong một
phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng
chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần
thành phố để lưu luyến ra đi giữa maù xanh biếc của tre trúc và của những vườn
cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi như sực nhớ lại điều gì chưa kịp nói, nó đột
nhột đổi dòng, rẽ ngoặc sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc
thị trấn Bao Vinh xưa cổ ”. Cũng theo tác giả, khúc quan thật bất ngờ đó , tựa
như một “ nỗi vương vấn”,và dường như còn có cả
“một chút lẳnglơ kín đáo của tình yêu ”...
.- Cuộc gặp gỡ giữa Sông
Hương – Huế
Huế
|
Sông Hương
|
+ Cầu Tràng Tiền bằng vành trăng non in gần trên
nền trời.
à một trong những biểu tượng của Huế
như mơ màng chờ đợi, như vẫy gọi dòng sông.
+ Những lâu đài của đất cố đô soi bóng xuống dòng
sông xanh biếc.
|
+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ = 1 tiếng vang vọng nói
ra của tgiả.
à Vẻ e thẹn, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình mà
không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn
ôm trọn Huế vào lòng.
|
+ Sông Hương và Huế hoà vào làm
1, sông Hương làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư sâu lắng
của Sông Hương.
+ Sông Hương giảm hắn lưu tốc xuôi
đi thực chậm… yên tĩnh, khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi
đây.
Nhận xét: Cuộc gặp gỡ của Huế và
Sông Hương được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tình yêu. Sông Hương được
Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá, phát hiện từ góc độ tâm trạng: Sông Hương gặp
thành phố như đến với điểm hẹn của tình yêu sau một hành trình dài trở nên vui
tươi và mềm mại. Sông Hương qua nghệ thuật so sánh đầy mới lạ, bất ngờ trở nên
có linh hồn, sự sống như một cô gái si tình đang say đắm trong tình yêu.
- Tạm biệt Huế để ra đi
Sông Hương
|
Huế
|
+ Rời khỏi kinh thành, Sông Hương ôm lấy đảo Cồn
Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu
1 lần cuối.
|
+ Quanh năm mơ màng trong sương khói và biêng
biếc màu xanh của tre trúc, vườn cau.
+ Thị trấn bao quanh là nơi Huế dõi theo 10 dặm
trường đình.
|
Nhận xét: Sự lưu luyến,
bịn rịn của đôi tình nhân trong chia biệt. Gợi liên tưởng đến mối tình Kim Trọng- Thuý Kiều. Sông Hương
giống như nàng Kiều trong đêm tình tự với chàng Kim với nỗi vấn vương, lẳng lơ,
kín đáo của tình yêu, như tấm lòng chung tình của người dân nơi Châu Hoá với
quê hương xứ sở.
4. Sông
Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc
Dòng S.Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca
ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở
còn là dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên
là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, là
“dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ
quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú
Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ ” vào thế kỉ XVIII; “ nó sống hết lịch sử bi
tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến
thời đại mới với Cách mạng tháng tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển qua
hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này...
àSông Hương là dòng sông có bề dày
lịch sử như một người con gái anh hùng, khi tổ quốc gọi nó tự biết hiến đời
mình làm một chiến công. Sông Hương là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá
xanh biếc.
à Sử thi mà trữ tình, bản hùng ca mà cũng là bản tình ca
dịu dàng tươi mát. Đó là nét độc đáo của xứ Huế, của Sông Hương được tác giả
khám phá và khắc hoạ từ góc độ lịch sử.-
Dòng sông gắn với những phong
tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế
5 .Sông Hương với thơ ca vơí đời thường
- Dòng sông âm nhạc: “ là người
tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc cổ
điển của Huế, là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
-
Dòng sông thi ca: một dòng sông thơ ca không lặp lại mình
+ Là vẻ đẹp mơ màng “Dòng sông
trắng lá cây xanh” trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm
dựng trời xanh” của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong
thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn
trong thơ Tố Hữu
-> Sông Hương luôn đem đến
nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các thi nhân.
+ Màn sương khói trên Sông Hương
như màu áo điền lục, một sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng.
+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông
Hương cũng như một nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: “rất dịu
dàng và rất trầm tư…”
- Dòng sông đời thường:sau những biến cố lịch
sử, “nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của
đất nước”.
6. Ai đã
đặt tên cho dòng sông?
Bài kí mở đầu và kết luận bằng một câu hỏi “Ai đã
đặt tên cho dòng sông?”
- Mang
nghĩa hỏi: Chính nội dung bài kí là câu trả lời, một câu trả lời dài như một
bài kí ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên cũng rất đẹp và phù
hợp với nó: Sông Hương.
- Mang
tính chất biểu cảm.
+ Là cái cớ để nhà văn đi vào
miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn với mảnh đất cố đô cổ kính tươi
đẹp.
+ Thể hiện tình cảm ngỡ ngàng
ngưỡng mộ thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả với dòng sông Hương, thành phố
Huế thân yêu. Vì quá yêu mà bật thành câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
7. Hình
tượng nhân vật tôi trong tác phẩm
- Một
trí thức gắn bó và có tình yêu thiết tha đến say đắm đối với cảnh và người nơi
xứ Huế.
-Nhân
vật đã huy động tổng hợp vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, địa lí, lịch sử và văn
chương để miêu tả và cảm nhận những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông
-Nhân
vật tôi nhìn dòng sông từ nhiều điểm
nhìn khác nhau: thượng nguồn,trong thành phố Huế, ra ngoại vi thành phố; từ góc
độ địa lí, văn hoá, lịch sử,...kết hợp, đan xen điểm nhìn không gian và thời
gian...
-
Giọng điệu của nhân vật là giọng thủ thỉ, tâm tình, say đắm mà tỉnh táo, tự tin
nhưng không áp đặt, sắc sảo mà giàu cảm xúc....
III- TỔNG KẾT.
- Cảm nhận và hiểu được vẻ đẹp
của Huế, của tâm hốn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của HPNT về dòng sông
Hương-> HPNT xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điểm sống
về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
- Bài kí góp phần bồi dưỡng tình
yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.
B. Câu hỏi:
1/ Sông Hươngvùng thượng nguồn
được miêu tả như thế nào? Nét độc đáo của sự miêu tả ấy?
2/ Sông Hương khi gặp kinh thành
Huế có nét gì đặc biệt? Tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật gì để thể hiện rõ
sự đặc biệt ấy?
3/ Ngoài mhững vẻ đẹp của sông
Hương như đã thấy, tác giả còn phát hiện sông Hương có những vẻ đẹp nào khác?
4/ Cảm nhận của anh ( chị )về
nhân vật tôi trong tác phẩm ( vốn tri
thức văn hoá tổng hợp, tình cảm với Huế, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật)?
5/ So sánh cách tiếp cận sông Đà
của Nguyễn Tuân với cách tiếp cận sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường..
E. MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH
VĂN XUÔI:
1. VỢ CHỒNG A PHỦ
Tô Hoài
A.. Kiến thức cơ bản
I. Tác giả :
- Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, người Hà Nội, sinh năm
1920. Là một nhà văn có nguồn sáng tạo to lớn. Có trên 100 tác phẩm. Trước cách
mạng, nổi tiếng với truyện “Dế mèn phiêu
lưu ký”. Sau năm 1945, có “Truyện Tây
Bắc”, “Mười năm”, “Miền Tây”, “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ”, “Tự truyện”…
- Sáng tác của Tô Hoài thể hiện vốn hiểu biết phong phú
về đời sống và phong tục, chất tạo hình và chất thơ qua miêu tả và kể chuyện
đầy thú vị. Là một nhà văn viết truyện về miền núi rất thành công.
- Tô Hoài là nhà văn có nhiều đóng góp cho văn xuôi Việt
Nam hiện đại.
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ :
-.Năm 1952, Tô Hoài đi cùng bộ
đội vào giải phóng Tây Bắc. Với chuyến đi dài 8 tháng ấy, Tô Hoài đã sống cùng
đồng bào các dân tộc : Mèo, Thái, Dao,
Mường ở nhiều vùng ở đây. Chuyến đi ấy đã giúp ông hiểu rõ về cuộc sống và
con người miền Núi đã để lại cho ông những kỉ niệm khó quên và tình cảm thắm
thiết đối với đất nước và con người Tây Bắc.
Truyện “Tây Bắc” là kết quả của chuyến đi
đó, là tác phẩm văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam thời kháng chiến chống
Pháp .
Tác phẩm này được tặng giải I của hội văn nghệ
Việt Nam 1954 – 1955.
“Vợ Chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc
được rút ra từ tập truyện “Tây Bắc”
- Thông qua số phận của Mị và A Phủ, tác giả thể hiện tấm
lòng yêu thương, trân trọng con người và ngợi ca ý nghĩa nhân đạo của sự nghiệp
giải phóng con người thoát khỏi tối tăm và áp bức.
2.Nội dung cơ
bản:
a.Tác phẩm đã miêu tả được những thân phận nô
lệ dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi (giá trị hiện thực):
*) Thông qua
cuộc đời nhân vật Mị :
- Mị là nạn nhân của sự vùi dập về thể xác: (bị bóc lột
sức lao động thậm tệ; bị đánh đập, bị trói và bỏ đói bất cứ lúc nào…)
- Mị là nạn nhân của sự vùi dập về tinh thần : (căn buồng
Mị ở tối tăm, chỉ thông ra thế giới bên ngoài qua một cửa sổ “lỗ vuông bằng bàn tay”; Mị sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”…)
*) Thông qua
cuộc đời A Phủ :
- Là chàng trai
khỏe mạnh, giỏi giang, con gái trong làng nhiều người mê.
- Vì không chịu được sự bất công cũng như thái độ hống
hách, cậy quyền thế của A Sử - con trai thống lý Pá Tra, A Phủ đã đánh A Sử. A
Phủ bị bắt, phải vay nhà thống lý một trăm đồng bạc hoa xòe để nộp vạ cho làng
và trở thành người ở trừ nợ.
- Vì để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị thống lý Pá Tra
trói đứng và bỏ đói đến gần chết.
-> Thân phận con người
không bằng con vật.
b. Tác phẩm
miêu tả sức sống tiềm tàng của người dân miền núi (giá trị nhân đạo):
*) Qua nhân
vật Mị :
- Dù bị áp chế về cả thể xác và tinh thần, tâm hồn Mị vẫn
không hoàn toàn giá lạnh. Bên trong cái dáng lùi lũi như con rùa nuôi trong
xó cửa, Tô Hoài vẫn nhận ra một
sức sống tiềm tàng trong con người Mị mà
khi có đủ điều kiện nó sẽ vùng lên để tìm lại cuộc sống đích thực cho mình.
- Sức sống của nhân vật Mị được miêu tả trực tiếp trong
tác phẩm:
+ Trong lần định ăn nắm lá
ngón tự tử : Mị định chết vì ý thức được cuộc sống tủi nhục, vô nghĩa của
mình.
+ Trong đêm tình mùa xuân : Điều kiện có tác dụng
trực tiếp cho việc biểu hiện sức sống của Mị là không gian của đêm tình mùa
xuân, hơi rượu và tiếng sáo. Sức sống của Mị thể hiện trong cảm xúc, trong sự hồi
tưởng và hành động. Sức sống tiềm tàng thể hiện ngay cả khi bị trói.
+ Trong đêm cởi trói cho A
Phủ : Từ sự đồng cảm với A Phủ (khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ khi bị trói), Mị
nhận ra gia đình thống lý Pá Tra độc ác thật, trói người cho đến chết và
Mị đã cắt dây mây cởi trói cho A Phủ.
- Kết quả của sức sống tiềm tàng: Mị cởi trói cho A Phủ
và cùng A Phủ trốn hỏi Hồng Ngài đến với cuộc sống tự do.
*) Qua nhân vật A Phủ :
- Nếu
như trong phần đầu nhà văn chú ý miêu tả Mị thì ở phần sau, khi hai người chạy
thoát khỏi Hồng Ngài và nên vợ nên chồng, nhà văn lại quan tâm miêu tả quá
trình giác ngộ cách mạng của A Phủ nhiều hơn.
- Thoát
khỏi gông cùm của bọn phong kiến, A Phủ lại đối đầu với bọn thực dân. Dần dần,
anh ý thức rõ hơn về mình và tội ác của thực dân Pháp. Từ căm thù thực dân, A
Phủ đã đến với A Châu, đến với cách mạng bằng một tấm lòng thành thật, trong
sáng...Và nhiều lúc chính anh là người nâng đỡ tinh thần cho Mị.
- A Phủ
dã khẳng định bản thân mình bằng chính hành động đấu tranh cách mạng.
c. So sánh tính
cách và số phận của Mỵ và A Phủ.
*) Sự giống
nhau:
- Về tính cách: Cả hai đều là những người lao động, có
những phẩm chất tốt đẹp, cả hai đều còn trẻ.
- Về số phận:
+ Cả hai đều là những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột
và cuối cùng, kẻ thì thành con dâu gạt nợ, kẻ thì thành đứa ở gạt nợ cho nhà
thống lý Pa Tra.
+ Sau một thời gian bị vùi dập, cả hai đều an phận, chấp
nhận cuộc sống tôi đòi. Nhưng cuối cùng, cả hai đều đi từ đấu tranh tự phát, tự
giải phóng cho mình và cuối cùng đi đến đấu tranh tự giác.
*) Sự khác
nhau:
- Về tính cách :
+ Mị là cô gái có tâm hồn nhạy cảm (nhắc lại những vấn đề
về sự hồi sinh trong tâm hồn cô trong đêm xuân và việc cởi trói cho A Phủ.)
+ Phủ cứng cỏi,
gan dạ, ngay thẳng (với A Phủ, tác giả chủ yếu miêu tả hành động hơn là biểu
hiện nội tâm)
- Về số phận.
+ Mỵ tiêu biểu cho
những người phụ nữ miền núi, thân phận thấp hơn cả con ngựa trong nhà thống lý
+ A Phủ tiêu biểu cho người thanh niên nghèo miền núi, là
công cụ lao động cho những kẻ bóc lột.
d. Nghệ
thuật :
- Thành công tiêu biểu là đã miêu tả một cách logic quá
trình phát triển nội tâm của nhân vật, đặc biệt là tính cách nhân vật Mị.
- Là một cây bút có biệt tài trong việc tả cảnh vật,
thiên nhiên. Thiên nhiên trong tác phẩm sống động, có hồn, khêu gợi, góp phần
đắc lực cho việc biểu hiện nội tâm nhân vật.
- Sử dụng thành thạo lời nửa trực tiếp, đó là lời kể của
tác giả nhưng người đọc vẫn cảm nhận như chính lời của nhân vật đang tự bộc lộ “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi
chơi”..., có nhiều chi tiết giàu chất thơ.
3. Kết luận:
- Truyện có giá trị nhân đạo sâu sắc : Phát hiện và
ngợi ca sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người. Giá trị nhân đạo của “Vợ chồng A Phủ” gắn liền với đường lối
cách mạng và chính sách dân tộc của Đảng : Giải phóng cho những người lao
động bị áp bức bóc lột, đem đến cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Qua hai nhân vật Mỵ và A Phủ, tác phẩm cho thấy :
Xã hội phong kiến miền núi dù có tàn bạo đến đâu cũng không giam hãm được khát
vọng sống của con người.
B. CÂU HỎI
THAM KHẢO
Câu1: Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng Aphủ của Tô
Hoài?
Câu 2: Hoàn cảnh sáng tác tác phẩm Vợ chồng Aphủ ?
Câu 3: Phân
tích nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài để thấy được
giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
1. Phân tích nhân vật:
-Mị trước khi làm dâu nhà thống lý: Cô gái
người Mèo xinh đẹp, yêu đời, có tài thổi sáo, khao khát yêu và đã được yêu.
- Mị, con dâu gạt nợ nhà thống lý: Người đàn
bà sống nhẫn nhục trong tăm tối =>Danh nghĩa là con dâu song kì thực là nô
lệ, Mị là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần
- Sức sống mãnh liệt của Mị:
+ Lần 1: Mới bị bắt về làm dâu=> định tìm
đến cái chết vì không chấp nhận sống nô lệ
+ Lần 2: Trong đêm tình mùa xuân=>
Mị muốn đi chơi
+ Lần 3: Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị đã
cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ=> hành động bất ngờ, bột phát thể hiện
tinh thần phản kháng và khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng.
- Mị đến với cách mạng như là một
tất yếu của quy luật có áp bức có đấu tranh, từ đấu tranh tự phát sang đấu
tranh tự giác
2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua nhân
vật Mị:
- Nhân đạo là thương người vì con
người mà lên tiếng
- Câu chuyện đau buồn của Mị
không phải là chuyện riêng của Mị mà tiêu biểu cho người phụ nữ miền núi trong
chế độ phong kiến- thực dân
- Nhân vật Mị là một hình tượng
nghệ thuật đẹp tiêu biểu cho khát vọng sống khát vọng hạnh phúc của người dân
miền núi và hành trình tất yếu tìm đến cách mạng của họ
=> Truyện mang giá trị nhân
đạo sâu sắc: xót xa với những số phận bất hạnh, ngợi ca những tâm hồn tuổi trẻ
yêu đời trong sáng, bất bình với những tội ác man rợ của bọn quan lại miền núi
và đồng tình với khát vọng giải phóng của người dân miền núi với chế độ thực
dân phong kiến xưa
Đề 2: Phân tích Nhân vật MỴ :
a/ Là cô gái trẻ , đẹp , tài hoa :
Thổi sáo giỏi, thổi kèn cũng hay như thổi sáo .
Có bao nhiêu người mê, ngày đêm
đi theo Mỵ “đứng nhẵn vách buồng nhà Mỵ”
è Mỵ có đủ phẩm chất được
sống hạnh phúc . Tâm hồn Mỵ đầy ắp hạnh phúc , ước mơ.
b/ Là cô gái có số
phận bất hạnh :
Vì
bố mẹ không trả nổi tiền thống lí Pá Tra – Mỵ phải trở thành con dâu gạt
nợ chịu tủi nhục , cực khổ .
Bị đối xử chẳng khác nào nô lệ
, bị đánh đập , trói đứng cả đêm , suốt ngày quần quật làm việc à Mỵ tưởng mình là con trâu , con ngựa .
Mất hết cảm giác, thậm chí mất hết ý thức
sống, sống mà như đã chết“lúc nào mặt
cũng buồn rười rượi”.
Không mong đợi điều gì , cũng chẵng còn ý
niệm về thời gian , không gian . “suốt
ngày lùi lũi như con rùa xó cửa” à thân phận nghèo khổ bị áp bức .
Cái buồng Mỵ ở kín mít ,cửa sổ “lỗ vuông
bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng ,không biết là sương hay
nắng” à căn buồng Mỵ gợi không khí nhà giam .
c/
Sức sống tiềm tàng , khát vọng hạnh phúc của MỴ :
- Lần 1 : lúc mới làm con dâu gạt nợ .
* Mỵ định ăn lá ngón tự tử ( ý thức về đời sống tủi nhục của mình) à không chấp nhân cuộc sống đó .
* Tìm đến cái chết như một phương tiện giải
thoát , là khẳng định lòng ham sống ,khát vọng tự do của mình
-Lần 2 : trong đêm tình mùa xuân .
Lòng ham sống ,niềm khao khát hạnh phúc lứa
đôi được đánh thức .
Tiếng
sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những ngày tháng tươi đẹp trong quá khứ .Mỵ lấy rượu
ra uống “ ừng ực từng bát một” –như
uống những khao khát , ước mơ ,căm hận vào lòng . Mỵ cảm thấy “phơi phới đến góc nhà lấy ống mỡ , xắn một
miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”à thắp sáng niềm tin ,giã từ bóng tối . Mỵ lấy váy áo định đi chơi nhưng
ngay lập tức bị A Sử ûtrói vào cột nhà, nhưng vẫn thả hồn theo cuộc vui .
-Lần 3 : cởi trói cho A Phủ .
Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị hành
hạ có nguy cơ chết , lúc đầu Mỵ không quan tâm “dù A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng vậy thôi”.
Nhưng thấy “một
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại” của A Phủ. Mỵ
xúc động , thương mình, thương người . à Mỵ quyết định cởi trói A Phủ.
Đứng lặn trong bóng tối , rồi chạy theo A Phủ cùng trốn khỏi Hồng Ngài à hành động mang tính tự phát .
è Quá trình phát triển tính cách
phong phú , phức tạp . Cởi trói cho A Phủ cũng chính là cởi trói cho cuộc đời
mình . Chấp nhận cuộc sống trâu ngựa và
khao khát được sống cuộc sống con người , nhẩn nhục và phản kháng là hai mặt
mâu thuẫn trong con người Mỵ , Cuối cùng
tinh thần phản kháng , khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng .
Giá trị tư tưởng , nhân đạo của tác phẩm :
- Phản ánh cuộc sống cơ cực , bị
đè nén bởi áp bức nặng nề của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của
bọn phong kiến câu kết thực dân Pháp .
- Mở ra lối thoát cho nhân vật vùng
lên làm CM, xóa bỏ chế độ PK – gắn cuộc đấu tranh tự giải phóng cá nhân với
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp , giải phóng dân tộc.
+ Nghệ thuật :
Đậm đà màu sắc dân tộc .
-
Khắc họa bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ thơ mộng với
phong tục độc đáo, hình ảnh người dân TB
hồn nhiên chân thật .
-
Thành công trong
việc xây dựng nhân vật , diễn biến tâm lý phức tạp .
* Qua việc khắc họa nhân vật Mỵ
, Tô Hoài tố cáo chế đ6ï PK miền núi ,ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người vùng
cao nói chung ,của thanh niên Mèo nói riêng .Họ biết yêu cái đẹp , cái lẽ phải
để rồi vượt lên tìm lại chính mình .
* Sức sống của nhân vật Mỵ được Tô
Hoài khắc họa hết sức tài tình , độc đáo . Từ một con người dường như bị mất
hết quyền làm người , tâm hồn Mỵ dường như không còn tồn tại . Thế nhưng , với
một nghị lực phi thường , một lòng ham sống mãnh liệt ,Mỵ đã tìm thấy` hạnh
phúc cho bản thân , dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Nguyễn
Khải đã từng triết lý “hạnh phúc bắt nguồn từ những hi sinh gian khổ . Ở đời
không co ùcon đường cùng mà chỉ có những ranh giới . Điều quan trọng là phải có
sức mạnh để vượt qua thử thách đó”.
2. VỢ NHẶT
Kim Lân
A. KIẾN
THỨC CƠ BẢN
I. TÁC GIẢ:
- Kim Lân (1920-2007), tên khai sinh là Nguyễn văn
Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn , tỉnh Bắc Ninh.
- Kim Lân
là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở
khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân.
- Tác phẩm chính:Nên vợ nên chồng( tập truyện
ngắn, 1955), Con chó xấu xí( tập truyện ngắn, 1962).
II. TÁC
PHẨM:
1.Hoàn cảnh
sáng tác
Đầu năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào
Đông Dương, nhân dân ta lâm vào tình thế một cổ hai tròng. Ở miền Bắc nước ta. Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, trong khi
đó, Pháp tăng thuế ra sức vơ vét, bóc
lột nhân dân ta.
Đến năm 1945 hơn triệu người Việt Nam
chết đói. Điều này đã làm xúc động giới văn nghệ sĩ, Kim Lân đã đóng góp thành
công một truyện ngắn, đó là “Vợ Nhặt”.
Lúc đầu,truyện có tên là”Xóm ngụ cư”,hòa bình lập lại 1954, Kim
Lân sửa lại in chính thức“Vợ Nhặt”.
II. Nội dung cơ bản :
a/
Hoàn cảnh túng đói , khốn khổ của người dân ngụ cư :
Bức tranh thảm đạm về nạn đói năm
1945. Cái đói đã làm xóm ngụ cư vốn nghèo khổ giờ đây càng xơ xác, thê lương .
Cái đói làm cho bọn trẻ “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn
nhúc nhích”.Cái đói hành hạ cả xóm khiến nhiều người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp các lều chợ”. Cảnh
tang tóc bao trùm lên xóm ngụ cư “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào
người trong làng đi chợ , đi làm đồngkhông gặp ba bốn cái thây nằm còng queo
bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người”ï.Tràng kéo xe thóc tạm sống qua ngày , nghèo không thể có vợ .Người
vợ nhặt lượm từng hạt thóc rơi để có
miếng ăn mỗi ngày .
Tâm trạng lo âu, sợ hãi cái
đói, cái chết của người dân . Hình ảnh thê lương của người dân Ngụ Cư là bằng
chứng tố cáo tội ác tày trời của Pháp – Nhật. Chúng đã dẩy nhân dân ta vào vòng
cùng khổ, chết chóc“Đằng thì nó bắt giồng
đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”.
b/ Người dân
ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết mà vui, hi vọng , khao khát vươn lên trên cái
chết , hướng đến sự sống .
Người vợ nhặt : Người phụ nữ đói rách được một bữa no quyết
định theo Tràng về làm vợ “cái đói làm
con người biến đổi nhanh” . Tội nghiệp hơn chị theo Tràng về làm vợ không
một nghi thức nào .
Tràng
: một con người có ngoại hình xoàng xĩnh , cách nói năng thô kệch, cộc
cằn . Nhưng anh có tấm lòng nhân hậu ,cưu mang người vợ nhặt , giúp người phụ
nữ sống, chủ yếu là “trong lòng hắn chỉ
còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm,
chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy”. .
Bà cụ Tứ : vượt lên nỗi xót xa
, tủi phận để chấp nhận nàng dâu .
Tràng cảm thấy vui , thấy mới
lạ , bối rối khi có vợ, thấy có trách nhiệm, tình cảm gắn bó với gia đình “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với
caí nhà của hắn lạ lùng”.
Người vợ nhặt đảm đang, vén
khéo việc nhà, lo cho gia đình .
Bà cụ Tứ vui rạng rỡ, quét dọn
nhà cửa, hi vọng làm ăn khá, chuẩn bị bữa ăn sáng chu đáo, phát họa chuyện
tương lai “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày
thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Hình ảnh cách mạng xa mà gần,
trừu tượng mà cụ thể. Hình ảnh đó làm cho họ suy nghĩ, gây cho họ xúc động, tạo
cho họ niềm tin . Hiện thực khắc nghiệt vẫn còn đó, tiếng trống thúc thuế vẫn
dồn dập, nhưng trong ý nghĩ của Tràng “Vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm
kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.
c/Đăc sắc nghệ thuật:
- Tình huống truyện độc đáo,
đặc biệt:Trong khi nạn đói đe doạ tính mạng mọi người, cái đói trùm bóng đen
lên cả xóm thì Tràng “nhặt ”được vợ. Điều đó làm cho mọi người ngạc nhiên, bà
cụ Tứ ngạc nhiên và cả Tràng cũng thấy bối rối cho chính mình.Rồi cả ba con
người cùng khổ đó đã thay đổi như có phép lạ.Bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo, vừa vui
vừa buồn; người vợ nhặt trở nên hiền hậu đúng mực; Tràng thì thấy thương yêu,
gắn bó hơn với cái nhà của mình.
- Phân tích tâm lí của tác giả
rất sâu sắc, đặc biệt là tâm trạng của bà cụ Tứ. Ngôn ngữ nông thôn được thể
hiện một cách nhuần nhị.
III Kết Luận:
Vợ Nhặt là tác phẩm ca ngợi tình yêu cuộc sống ngay
giữa mùa chết chóc .Khẳng định vai trò của cách mạng tháng Tám đối với cuộc đời
của bao kiếp lầm than
B. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1/. Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt
của Kim Lân?
2/.Từ những tình tiết chính và tên truyện Vợ
nhặt, anh (chị ) nhận xét gì về số
phận người phụ nữ nông thôn trước cách mạng qua nhan vật vợ Tràng?
3/. Nêu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ nhặt”. Vì
sao có thể nói rằng “Vợ nhặt” đã được xây dựng trên cơ sở của một tình
huống lạ?
4/ Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ. Qua đó , em
hiểu gì về tấm lòng của người mẹ nghèo?
5/. Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc
trong “Vợ nhặt” của Kim Lân
6/ Phân tích tình huống truyện độc đáo mà
Kim Lân đã tạo dựng trong truyện Vợ nhặt. Qua đó nêu lên giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo của tác phẩm ?
THAM KHẢO MỘT SỐ BÀI
VIẾT SAU:
1/Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Bà
cụ Tứ vốn là một nông dân từng trải, trung hậu. Cụ hiểu rõ hoàn cảnh của gia
đình mình; Con trai mình trong những ngày tháng bị cái đói hành hạ ghê ghớm.
Khi
trông thấy người đàn bà ở trong nhà với con mình, bà cụ Tứ vô cùng ngạc nhiên “Quái,
sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà nhỉ? (…) Sao lại chào mình bằng u (…)
Ai thế nhỉ? (…) Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Đến lúc biết được người đàn bà
kia chính là vợ của con trai mình, tâm trạng của bà cụ diễn biến khá phức tạp,
phong phú.
Trước
hết, nghĩ đến cảnh túng thiếu, đói khát của gia đình mình cụ Tứ thấy tủi thân,
tủi phận. Cụ ý thức rất rõ lấy vợ cho con trai lẽ ra phải thế này, thế nọ;
nhưng cái khó bó cái khôn nên chỉ còn cách nghĩ ngợi tủi thân, tủi phận. Rồi cụ
thương con đẻ, thương đến cả con dâu. Cụ biết duyên cớ vì đâu người ta phải
theo con mình (“Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót”, và cụ nói
với vợ chồng Tràng “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.
Việc
Tràng “nhặt” được vợ vừa là nỗi buồn rầu lo lắng, vừa là niềm vui mừng
của bà lão tội nghiệp này. Mừng vì người con thô lậu, quê kệch đã có vợ. Lo vì
đúng lúc đói khát, chết chóc này, liệu lấy gì mà nuôi nhau. Tuy vậy, dẫu sao
niềm vui vẫn nhiều hơn. Bà lão “tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng
beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăn xắn thu dọn quét tước nhà cửa”. Đến
bữa ăn, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cụ cố giấu
cái lo, động viên các con “nhà ta thì còn nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày
liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông trời cho khá… Biết thế nào hở con,
ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì con cái chúng mày về sau”.
Nhưng
“nghĩ ngợi mãi”, “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy
xuống ròng ròng”. Bởi bà cụ nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ
đến cuộc đời khổ cực của mình, nghĩ đến tương lai của con trai và con dâu… và
chẳng thể thoát ra khỏi không khí chết chóc đang bủa vây xung quanh.
Qua diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ. Chúng ta có thể nhận thấy biệt tài
phát hiện và miêu tả tâm lí một cách chân thật và sắc sảo của Kim Lân. Điều này
có tác dụng to lớn, khắc hoạ rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong
một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói
chung vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một mái ấm gia đình
2/Phân tích giá
trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của
Kim Lân.
Trong
truyện ngắn Vợ nhặt, Kim lân muốn bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc
của mình. Ấy là khi nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động
trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn
vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng
vào ngày mai.
Không
phải ngẫu nhiên. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về cái đói. Chỉ mấy chữ “Cái
đói đã tràn đến…” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người xứ Việt về một
hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất
nước này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy “tràn đến”, tức là
mạnh như thác dữ.
Cách
tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người
năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối”, nhưng đáng sợ
nhất là có tới hai lần ông so sánh người với ma: “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt
bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ
như những bóng ma”. Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim
Lân về cái thời ghê rợn: đó là cái thời mà ranh giới giữa người và ma, cái sống
và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mấp
mé miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ
chết ấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi
thê thiết” cùng với “mùi gây của xác
người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết
sức mạnh huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim
Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo. Chao ôi, toàn những chuyện cười ra
nước mắt: bốn bát bánh đúc ngày đói mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói
đủ làm cỗ tân hôn… Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi
hiện thực đến đáy, tạo cho thiên truyện một cái “phông” đặc biệt, nhàu nát, ảm
đạm, tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã.
Nhưng
quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng lên một bản cáo trạng trong Vợ
nhặt , mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ trong bóng tối của hoàn cảnh
Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của
bức tranh hiện thực buồn đau là một phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người
tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.
Trong
văn chương người ta thường nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song
nếu cái tài không đạt đến một mức nào đó thì cái tâm kia làm sao
bộc lộ ra được. Ở Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng thiết tha của Kim Lân sở dĩ
lay động người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài
dẫn truyện.
Tài
dựng truyện ở đây là tài tạo nên một tình huống độc đáo. Ngay cái
nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài trả
lời phỏng vấn, Kim Lân hào hứng giải thích:”nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ.
Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái
chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một con
người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh
đúc ngoài chợ – đúng là “nhặt” được vợ như tôi nói trong truyện”. Như
vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống
truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là
Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên
lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên
hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân
Tràng nữa: “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ
rồi đấy ư?”. Tình huống trên gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng người:
trạng thái chông chênh khó nói – cái gì cũng chập chờn, như có, như không. Đây
là niềm vui hay buồn? Nụ cười hay nước mắt?... Cái thế đặc biệt của tâm trạng
này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.
Dựng
truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm ngòi pháo. Có
lửa tốt, châm đúng ngòi nhưng dây pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ xịt như
thường. Cho nên tài dựng truyện, phải gắn với tài dẫn truyện nữa
mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài dẫn truyện của Kim Lân thể hiện qua lối
sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành công, qua lời văn áp sát vào tận cái
lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được “bứng” ra từ chính cái chất
liệu ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là ở bút pháp hiện thực
tâm lí. Phải nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong
việc khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là
hai trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lí trước một
tình thế như nhau, song không ai giống ai.
Anh
cu Tràng cục mịch, khù khờ, có ai ngờ lại là một chàng trai thực sự hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng. Cơn say
hạnh phúc thăng hoa trong tâm linh, khiến Tràng mất trọng lượng, lơ lửng trong
cõi ảo, cõi mơ. Ngòi bút thực của Kim Lân từng tỉnh thế, bây giờ ngòi bút trữ
tình của ông cũng sao mà say thế. Nói đúng hơn, nhà văn phải đứng giữa cái say
/ tỉnh ấy mới “cảm thụ” tới tận đáy cuộc đời, mới tạo ra được những áng “thần
bút” như văn Kim Lân trong “Vợ nhặt”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc
kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh
phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chẳng thế
mà một người nổi tiếng như Secnưsepxki từng mơ ước: “Tôi sẵn sàng đánh đổi cả
sự nghiệp nếu biết rằng trong một căn phòng nhỏ ấm áp nào đó, có một người đàn
bà đang ngóng đợi tôi về bữa ăn tối”. Chàng thanh niên nghèo khó của Kim Lân đã
thực sự đạt được một niềm vui như thế: “Bỗng
nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một
gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa
che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”.
Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh
Tràng của Kim Lân may mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn trong
tay Tràng.Còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen
tối cướp mất. Có một chi tiết rất đắc của Kim Lân: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần
tu sửa lại căn nhà”. So với cái dáng “ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành
động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi
thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời
sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều
kiện đặt vào dòng suy nghĩ của Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy
hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm
hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
Bình
luận truyện Vợ nhặt, không hiểu sao có một câu rất quan trọng của Kim
Lân mà nhiều người hay bỏ qua. Đó là câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy
đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Một câu kết như thế, chứa đựng
bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao
vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa
quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác
phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Số phận con
người trong văn học hiện thực đồng nghĩa với bế tắc. Nền văn học mới sau Cách
mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một
cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
Quá
trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con trai,
niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với
một chàng rễ trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo
kiểu gấp khúc hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của
người già từng trải và nhân hậu.
Cũng
như con trai, khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con trai ngỡ ngàng
trước một cái đã biết, còn bà mẹ ngỡ ngàng trước một cái dường như không hiểu
được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái
ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn:
“Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại
đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không
phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?” Rồi lại:”Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Trái
tim người mẹ có con trai vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại
để cho nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút “kịch”
trong ngòi bút Kim Lân chăng? Không, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo
dáng. Đây là nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh
mất ở người mẹ sự nhạy cảm đó.
Nếu
ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì bà cụ Tứ, sự vận động tâm lý
phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão”cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng
đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo, thương lẫn lộn. Tình thương của bà mẹ
nhân hậu mới bao dung làm sao: “… chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn
đói khát này không?”. Trong chữ “chúng nó” người mẹ đã đi từ lòng thương
con trai sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của
con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý
thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một
nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần phơi phới.
Rồi
tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day
dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa
tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến
tương lai của con…, để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu
nói giản dị:”chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” Trên ngổn ngang những
nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để cái
ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ… nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây –
Bà lão múc ra một bát – chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon”này
cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc
cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc
của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân
muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và
hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất
người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là
nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực
tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.
Thành
công của nhà văn là thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lí khá
tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt. Biết vượt lên hoàn cảnh vẫn
là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy
tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm.
Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang
ý nghĩa nhân văn. Trong tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế đấy, nhà
văn Nga Nhicôlai Oxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: “Hãy
biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”. Vợ nhặt là
bài ca về tình người ở những người nghèo khổ đã “biết sống” như con người ngay
giữa thời túng đói quay quắt.
Thông
điệp này đã được Kim Lân chuyển hóa thành một thiên truyện ngắn xuất sắc với
cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm
lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
3. RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành
I. Tác giả:
- Nguyễn Trung Thành (Bút danh khác là Nguyên
Ngọc) tên khai sinh là Nguyễn văn Báu, sinh năm 1932.
-
Quê hương: Thăng Bình - Quảng Nam .
-
Năm 1950, ông vào bộ đội, sau đó làm phóng viên Báo Quân đội nhân dân Liên khu
V. Sau năm 1954 ông tập kết ra Bắc và năm 1962 ông trở về chiến trường Miền
Nam, hoạt động ở Quảng Nam và Tây Nguyên.
-
Nguyên Ngọc từng sống, gắn bó với Tây Nguyên và chính sự hiểu biết, lòng yêu
mến đối với thiên nhiên, con người Tây Nguyên đã khiến Nguyên Ngọc trở thành
người đầu tiên đưa vùng đất Tây Nguyên vào văn xuôi và là người viết thành công
về vùng đất ấy.
-
Văn chương Nguyên Ngọc đạt tới tầm vóc của những khúc sử thi hào hùng và mang
rất nhiều vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn.
-
Tác phẩm tiêu biểu: “Đất nước đứng lên”
(Giải nhất giải thưởng Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955); “Rừng xà nu”; “Đất
Quảng”; “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”
II/ Tác phẩm “Rừng xà nu”:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết
năm 1965. Đây là tác phẩm nổi tiếng được Nguyên Ngọc viết trong những năm kháng
chiến ác liệt chống đế quốc Mĩ.
2. Tóm tắt tác phẩm:
Làng của người dân Xôman thuộc bộ
tộc Strá bị tàn sát đau thương bởi đạn đại bác của giặc.
Tnú - người anh hùng của dân làng
Xôman - về thăm làng sau 3 năm đi lực lượng. Trong buổi họp mặt, cụ Mết đã kể
cho dân làng nghe về cuộc đời hoạt động của Tnú.
Tnú mồ côi cha mẹ, được dân làng
Xôman nuôi lớn. Từ nhỏ, Tnú đã cùng với Mai đi làm liên lạc cho cán bộ cách
mạng là anh Quyết ở trong rừng. Có lần, Tnú bị bắt khi đang làm nhiệm vụ, Tnú
nhanh trí nút lá thư vào bụng và quyết không khai dù bị tra tấn dã man.
Sau 3 năm bị tù, Tnú trốn về, thay
anh Quyết hướng dẫn dân làng khởi nghĩa. Giặc bao vây làng, quyết định bắt cho
bằng được Tnú. Không bắt được Tnú, chúng bắt vợ con anh tra tấn dã man. Tnú
xông vào giữa bọn lính che chở cho vợ con nhưng anh đã không cứu sống được họ.
Anh bị giặt bắt, chúng đốt 10 đầu ngón tay anh bằng nhựa xà nu nhưng anh vẫn
giữ được tinh thần.
Sau đó, dưới sự chỉ huy của cụ Mết,
đám thanh niên ở trong rừng về giết hết bọn giặc, cứu Tnú. Tuy mỗi ngón tay
trên bàn tay Tnú chỉ còn 2 đốt, Tnú vẫn tham gia lực lượng giải phóng quân
chiến đấu bảo vệ quê hương.
3. Nội dung:
a/ Ý nghĩa hình tượng rừng xà nu:
Mở đầu và kết thúc tác phẩm là hình
ảnh rừng xà nu. Nó vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa tượng trưng.
-
Ý nghĩa hiện thực: Thiên nhiên bị tàn phá dữ dội trong chiến tranh nhưng vẫn có
sức sống mãnh liệt.
Cây xà nu, rừng xà nu là hiện thân
cho vẻ đẹp của núi rừng Tây Nguyên, của thiên nhiên đất nước.
-
Ý nghĩa tượng trưng: Tượng trưng cho số phận đau thương nhưng rất bất khuất,
kiên cường của dân tộc Tây Nguyên trong việc cầm vũ khí đứng lên chiến đấu bảo
vệ quê hương. Sức sống của rừng xà nu cũng là sức sống mãnh liệt, bền bĩ của
dân làng Xôman nói riêng, của Tây Nguyên nói chung và hơn là của cả miền Nam , của cả dân tộc Việt Nam .
b/ Hình tượng nhân vật:
*. Cụ Mết:
-
Ngoại hình rắn rỏi, tính cách trầm tĩnh, vững vàng, sáng suốt, là gạch nối của
Đảng với đồng bào dân tộc.
-
là người đứng đầu buôn làng, có vai trò giáo dục rất lớn đối với dân làng.
→
Biểu tượng cho sức mạnh vật chất và tinh thần có tính truyền thống và cội nguồn
của các dân tộc Tây Nguyên.
*. Dít:
-
Có đôi mắt bình thản, trong suốt, nghiêm khắc biểu hiện một bản lĩnh vững vàng
trước mọi tình huống.
-
Gương mẫu, nhiệt tình, rất nguyên tắt.
-
Tình cảm sâu sắc nhưng lặng lẽ, kín đáo.
*. Bé Heng: Tiêu biểu cho thế hệ trẻ sẽ còn vươn xa hơn nữa; gắn
bó với cách mạng, tự hào về quê hương.
*. Tnú (Nhân vật trung tâm):
-
Mồ côi cha mẹ, được dân làng Xôman nuôi lớn.
-
Phẩm chất:
+ Gan góc, mưu trí, táo bạo, dũng
cảm (lúc còn làm liên lạc, học chữ, nuôi cán bộ trong rừng ...)
+ Giàu tình yêu quê hương, nhận thức
sâu sắc về Đảng, trung thành với cách mạng, gắn bó với mọi người trong buôn
làng.
+ Căm thù giặc sâu sắc.
+ Có ý thức kỷ luật cao.
+ Có nỗi đau lớn về thể xác và tinh
thần nhưng biết vượt lên mọi đau đớn, bi kịch của gia đình, bản thân để đấu
tranh kiên cường, bất khuất hướng về lí tưởng cách mạng. Khắc sâu chân lí cụ
Mết truyền dạy “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
→
Là con chim đầu đàn của Tây Nguyên anh hùng.
4. Giá trị nghệ thuật:
-
Mang đậm màu sắc sử thi.
+ “Rừng xà nu” là tiếng nói lịch sử
của thời đại gắn liền với những vận động, biến cố có ý nghĩa trọng đại đối với
toàn dân.
+ “Rừng xà nu” mang một hình thức sử
thi hoành tráng từ hình ảnh (rừng núi, con người) đến âm hưởng qua lời văn giàu
sức tạo hình, giàu nhạc điệu.
-
Thủ pháp nhân hoá, tượng trưng: rừng xà nu → con người Tây Nguyên kiên cường,
bất khuất.
-
Kết cấu, cốt truyện độc đáo.
Câu hỏi:
1. Tìm những chi tiết trong
tác phẩm miêu tả vẻ đẹp và sức sống của rừng xà nu?
2. Ý nghĩa của hình tượng
rừng xà nu?
3. “Rừng xà nu là truyện của
một đời và được kể trong một đêm.” Người anh hùng mà cụ Mết kể trong cái đêm
dài ấy có những phẩm chất đáng quý nào?
4. Câu chuyện của Tnú cũng
như của dân làng Xôman nói lên chân lí lớn nào của dân tộc ta trong thời đại
bấy giờ?
5. Phân tích những cảm nhận
của anh (chị) về vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm?
4. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH - Nguyễn
Thi
I/ Tác giả:
-
Nguyễn Thi (1928-1968) bút danh là Nguyễn Ngọc Tấn, tên khai sinh là Nguyễn
Hoàng Ca.
-
Quê hương: Hải Hậu - Nam
Định.
-
Cuộc sống tủi cực, vất vả từ nhỏ.
-
Năm 1945, ông tham gia cách mạng, vừa chiến đấu vừa hoạt động văn nghệ.
-
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và năm 1962 ông tình nguyện trở lại chiến trường
miền Nam .
-
Năm 1968, ông hy sinh ở mặt trận Sài Gòn.
-
Nguyễn Thi gắn bó sâu sắc với nhân dân Nam Bộ và trở thành nhà văn của người
nông dân Nam Bộ trong thời ký kháng chiến chống Mĩ.
-
Nhân vật tiêu biểu của Nguyễn Thi là những người nông dân Nam Bộ với những nét
tính cách tiêu biểu.
-
Là cây bút có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo.
-
Ngôn ngữ Nguyễn Thi góc cạnh, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm chất Nam
Bộ.
II/ Tác phẩm “Những đứa con trong gia
đình”:
1. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” được viết
ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt (chống Mĩ cứu nước) khi tác giả công
tác ở tạp chí “Văn nghệ Quân giải phóng”
2. Tóm tắt tác phẩm:
Việt là một chiến sĩ giải phóng
quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mối thù sâu nặng với Mĩ - Ngụy: ông
nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt cố nén nỗi đau riêng vất vả nuôi
con khôn lớn, và cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị
Chiến, thằng Út em, chú Năm. Truyền thống cách mạng vẻ vang và những đau
thương, mất mát của gia đình được chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ gia đình.
Việt và Chiến hăng hái tòng quân đi
giết giặc, quyết tâm lập nhiều chiến công để trả thù cho ba má.
Trong một trận chiến đấu ác liệt,
Việt bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần
tỉnh lại, dòng hồi ức đưa Việt về với những kỷ niệm thân thiết về má, chị
Chiến, chú Năm và đồng đội ...
Việt được đưa về điều trị, sức khoẻ
hồi phục dần và tiếp tục chiến đấu để xứng đáng hơn nữa với truyền thống của
gia đình, quê hương.
3. Nội dung:
a/ Truyền thống gia đình đã gắn bó những
con người với nhau:
- Căm thù giặc sâu sắc.
- Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu, giết
giặc.
- Giàu tình nghĩa, rất mực thuỷ chung, son sắc với quê
hương và cách mạng.
→ Tạo nên một dòng sông truyền thống.
b/ Nét riêng của từng con người trong
gia đình:
*. Chú Năm:
- Là tác giả của cuốn gia phả ghi lại những chiến công
và bao mất mát, đau thương của gia đình do tội ác của giặc gây ra.
- Là người lao động chất phác và rất giàu tình cảm
(tiếng hò của chú chứa đầy tâm tư, cảm xúc).
→ Chú Năm là khúc thượng nguồn của dòng sông truyền
thống, là nơi kết tinh truyền thống của gia đình.
*. Má Việt:
- Căm thù giặc sâu sắc, gan góc.
- Đảm đang, tháo vát, thương chồng thương con; biết
ghìm nén đau thương để nuôi con, đánh giặc.
→ Biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam .
*. Chị Chiến:
- Tính cách rất đa dạng: vừa có nét “trẻ con” của một
cô gái mới lớn, vừa biết nhường nhịn em, lo toan gia đình.
- Giống mẹ: gan góc, đảm đang.
- Khác mẹ: ở vẻ trẻ trung, thích làm duyên, xung phong
đi đánh giặc, trả thù nhà, với lời thề sắt đá: “làm thân con gái ra đi, tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất”.
→ Biết kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
gia đình, dân tộc.
*. Việt:
- Tính cách rất “trẻ con, hồn nhiên, hiếu động.
- Có tình thương yêu và gắn bó sâu sắc với gia đình.
- Dũng cảm, kiên cường, gan góc, luôn sôi nổi tinh thần
chiến đấu, quyết tâm lập nhiều chiến công để trả mối thù lớn.
→ Một con sóng vươn xa nhất trong dòng sông truyền
thống, là người tiêu biểu nhất cho tinh thần tiến công cách mạng.
4. Nghệ thuật:
- Nghệ thuật kể chuyện độc đáo: “Những đứa con trong
gia đình” được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật Việt: đó là dòng
hồi tưởng đứt nối của anh khi bị thương nằm ở chiến trường.
→ Câu chuyện tự nhiên, sống động, hấp dẫn; đồng thời
nhà văn có điều kiện nhập sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để dẫn dắt câu
chuyện.
- Ngôn ngữ góc cạnh, có giá trị tạo hình và mang đậm
tính chất Nam Bộ.
- Xây dựng nhân vật qua những chi tiết cụ thể, đắt
giá; tạo được không khí chân thực, sống động.
Câu hỏi:
1. Phân tích nghệ thuật trần
thuật đặc sắc của tác phẩm?
2. Nét đặc sắc trong tính
cách của các nhân vật: chú Năm, má Việt,chị Chiến và Việt?
3. Trong tác phẩm, Nguyễn Thi
có nêu lên quan niệm: “Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi
vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển...”
Anh(chị) có cho rằng, trong
thiên truyện của Nguyễn Thi quả đã có một dòng sông truyền thống liên tục chảy
từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha cho đến lớp người đi sau: chị em
Chiến, Việt?
4. Những đặc sắc về nghệ
thuật của tác phẩm? Phân tích những biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong
đoạn trích đã học?
5. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - Nguyễn Minh
Châu
I/ Tác giả: Nguyễn Minh Châu (1930-1989)
- Quê quán: Quỳnh Lưu - Nghệ An.
- Năm 1950: ông tham gia quân đội và là nhà văn quân
đội.
- Sau năm 1975, văn chương Nguyễn Minh Châu trở về với
đời thường, đi sâu, khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự.
→ Là nhà văn “Mở đường tinh anh và tài năng nhất của
văn học ta hiện nay”.
* Tác phẩm
chính: Cửa sông (1967), Những vùng trời khác nhau (1970), Dấu chân người lính
(1972), Những người đi từ trong rừng ra (1982), Bến quê (1985), Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành (1983), Chiếc thuyền ngoài xa (1987), Cỏ lan (1989)
...
II/ Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”:
1. Hoàn cảnh ra đời:
Năm 1987, đất nước đang trong thời kì đổi mới, cuộc
sống có nhiều thay đổi.
2/ Tóm tắt tác phẩm:
Theo đề nghị của trưởng phòng để có
được một bức ảnh nghệ thuật chụp cảnh thuyền và biển, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
đã thực hiện một chuyến đi thực tế tới một vùng biển từng là chiến trường cũ
của anh thời chống Mĩ. Sau gần một tuần tìm kiếm, Phùng săn được cảnh thuyền và
biển lúc bình minh thật đẹp. Thế nhưng, đằng sau cảnh đẹp đó, người nghệ sĩ đã
chứng kiến một sự thật phũ phàng: cảnh lão đàn ông dữ dằn, thô kệch đánh vợ một
cách vô lí và thô bạo. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến sự việc này. Không thể
nén chịu được nữa, Phùng đã xông ra can ngăn lão đàn ông, anh bị thương, được
đưa về trạm y tế của toà án huyện. Ở đó, anh được nghe câu chuyện của người đàn
bà hàng chài với bao sự cảm thông, ngỡ ngàng, ngạc nhiên ...
Bức ảnh chụp cảnh thuyền và biển
trong buổi sáng mờ sương của nghệ sĩ Phùng đã khiến trưởng phòng rất hài lòng
và nó được treo ở nhiều nơi. Kì lạ thay, mỗi lần nhìn vào đó, bao giờ Phùng
cũng thấy hiện lên hình ảnh người đàn bà chậm rãi bước ra rồi hoà lẫn vào trong
đám đông…
3. Nội dung:
a/ Những phát hiện của người nghệ sĩ
nhiếp ảnh:
- Phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ
sương: chiếc thuyền ngoài xa mà ánh sáng và đường nét đều hài hoà, tuyệt đẹp.
+ Như một bức tranh mực tàu của một
danh hoạ thời cổ.
+ Khám phá ra chân lí của sự toàn
thiện, khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
→ Người nghệ sĩ như bắt gặp cái tận thiện, tận mĩ và
tâm hồn như được gột rửa, trở nên trong trẻo
- Phát hiện thứ hai thật bất ngờ và trớ trêu như trò
đùa của cuộc sống: ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của
cái xấu, cái ác (lão đàn ông đánh vợ một cách tàn nhẫn, vô lí và người vợ nhẫn
nhục chịu đựng)
→ Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu
xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia là thứ “thuốc rửa” làm những
bức ảnh hiện lên thật khủng khiếp, ghê sợ.
b/ Câu chuyện của người đàn bà ở toà án
huyện: (là câu chuyện về sự thật cuộc
đời)
- Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam
chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập nhưng vẫn nhất quyết gắn bó với
lão đàn ông vũ phu đó.
- Nguồn gốc của sự chịu đựng, hi sinh của người đàn bà
là tình thương đối với con.
- Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn tìm ra
được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi.
→ Câu chuyện trên giúp Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều
điều, hiểu hơn về cuộc đời, con người.
=> Con người, nhất là nghệ sĩ không thể dễ dãi, đơn
giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.
c/ Cảm nhận về các nhân vật tác phẩm:
*. Người đàn
bà:
- Ngoài 40 tuổi, mặt rỗ, “khuôn mặt mệt mỏi”: cuộc đời
nhọc nhằn, lam lũ.
- Vì tình thương những đứa con, người đàn bà lặng lẽ
chấp nhận bị hành hạ, chịu đựng mọi đau đớn.
- Cam chịu, nhẫn
nhục, không bao giờ để lộ cảm xúc ra bên ngoài.
→ Người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi
sinh.
*. Lão đàn ông:
- Cuộc sống đói khổ, cực nhọc, lo toan đã biến “anh
con trai hiền lành” thành một người chồng vũ phu, độc ác.
- Đánh đập vợ con như là cách để giải toả ất uất, buồn
phiền.
→ Vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ vừa là thủ
phạm gây nên bao đau khổ cho chính người thân của mình.
*. Chị em Phác
- Chị thằng Phác hiểu biết, can đảm (cản việc làm dại
dột của em); biết chăm sóc, lo toan gia đình thay mẹ.
- Thằng Phác: Gây cảm động cho người đọc bởi tình
thương mẹ dạt dào.
*. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:
- Biết căm ghét, phẫn nộ trước mọi sự áp bức, bất
công.
- Anh cảm thấy hạnh phúc, xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của cảnh thuyền và
biển lúc bình minh.
- Kinh ngạc, túc giận trước sự bạo hành của cái xấu,
cái ác.
- Hành động như một phản xạ tự nhiên: “vứt cái máy ảnh
xuống đất chạy nhào tới” đề ngăn việc làm xấu xa của người đàn ông.
→ Không vì nghệ thuật mà bỏ quên cuộc đời. Sẵn sàng
làm tất cả vi cuộc sống tốt đẹp.
4. Nghệ thuật:
- Xây dựng cốt truyện độc đáo: tạo tình huống mang ý
nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
- Ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo.
+ Ngôn ngữ kể chuyện (tác giả hoá
thân vào nhân vật Phùng) điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể chuyện khách quan,
chân thực, giàu sức thuyết phục.
+ Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc
điểm tính cách của từng người.
Câu hỏi:
1. Vẻ đẹp của chiếc thuyên ngoài xa trên biển
sớm mờ sương được miêu tả như thế nào trong tác phẩm? Cảm nhận của người nghệ
sĩ nhiếp ảnh về cảnh đẹp đó?
2. Phát hiện thứ hai của
người nghệ sĩ nhiếp ảnh đằng sau khung cảnh thơ mộng đó là gì? Thái độ của
Phùng khi chứng kiến cảnh diễn ra ở gia đình hàng chài nói lên điều gì?
3. Câu chuyện của người đàn
bà ở toà án huyện đã tác động như thế nào đến những người như Phùng, Đẩu?
4. Nét đặc sắc về nghệ thuật
của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”?
5. Nhân vật nào trong tác
phẩm đã để lại anh (chị) ấn tượng sâu sắc nhất? vì sao?
G.
MỘT ĐOẠN TRÍCH KỊCH:
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
Lưu Quang
Vũ
I/ Tác giả:
- Lưu Quang Vũ (1948-1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại
Phú Thọ trong một gia đình tri thức.
- Từ năm 1965-1970: phục vụ quân đội.
- Từ năm 1970-1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu
sinh.
- Từ năm 1978-1988: bắt đầu sáng tác.
- Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng: làm thơ, sáng
tác văn xuôi, vẽ tranh và soạn kịch.
- Đóng góp xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ là soạn
kịch. Lưu Quang Vũ không chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu
kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong những nhà
soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
*. Tác phẩm tiêu biểu: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Chết cho điều chưa có, Nếu anh
không đốt lửa, Lời thề thứ 9, Tôi và chúng ta ...
II/ Tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt”
1. Hoàn cảnh sáng tác:
- Tác phẩm được viết năm 1981 và ra mắt công chúng năm
1984, là một vở kịch đặc sắc của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân
khấu trong và ngoài nước.
- Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng
thành một vở kịch hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng,
triết lí và nhân văn sâu sắc.
2. Tóm tắt:
Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào
bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống
lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Mọi rắc rối do hồn Trương ba phải
mượn xác hàng thịt bắt đầu xảy ra: lí tưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi
chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ ... mà bản thân Trương Ba thì
phải đau khổ, bất lực vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo.
Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương
Ba và xác hàng thịt diễn ra, trong đó, xác hàng thịt khẳng định sức mạnh và thế
lấn tới của hắn đối với hồn Trương Ba.
Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi
Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Cùng lúc, cu Tị, con một người hàng xóm ốm
nặng, sắp chết. Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương
Ba cương quyết từ chối, xin cho cu Tị được sống đồng thời trả xác cho nhà hàng
thịt và chấp nhận cái chết.
3. Nội dung:
a/ Các lớp đối thoại và ý nghĩa của chúng:
*. Màn đối thoại giữa hồ Trương Ba với
xác hàng thịt:
- Nghịch cảnh: linh hồn nhân hậu, trong sạch phải trú
nhờ trong một thân xác thô phàm.
- Linh hồn Trương Ba lệ thuộc và bị xác thịt thô phàm
điều khiển, lấn át.
- Xác hàng thịt tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù, ghê
gớm của mình, tìm cách khống chế, ve vãn, kêu gọi hồn Trương Ba thoả hiệp bằng
những lí lẽ ti tiện.
- Hồn Trương Ba ý thức sâu sắc về sự tha hoá, dằn vặt,
đau khổ, tìm cách thoát khỏi xác thịt để tồn tại độc lập.
- Xác hàng thịt khẳng định sự thắng thế của mình:
“chẳng còn cách nào khác nữa đâu”.
- Hồn Trương Ba khinh bỉ, mắng mỏ lí lẽ đê tiện của
xác hàng thịt nhưng rồi ngậm ngùi, thấm thía nghịch cảnh của mình và nhập vào
xác hàng thịt một cách tuyệt vọng.
Hàm ý của đối thoại:
- Trương Ba được trả lại sự sống nhưng đó là một cuộc
sống đáng hổ thẹn vì phải chung sống với sự dung tục và bị dung tục đồng hoá.
- Khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu
cái dung tục ấy sẽ ngự trị, thắng thế và sẽ tàn phá những gì trong sạch, cao quý
của con người.
*. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và
những người thân.
- Không chỉ bản thân Trương Ba đau khổ mà còn gây đau
khổ cho những người thân yêu.
- Vợ Trương Ba đau khổ bỏ đi; con dâu thương cảm, xót
thương cho hoàn cảnh của bố chồng; cháu gái phản ứng dữ dội, quyết liệt, không
chấp nhận sự tồn tại của ông.
- Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba đã lên đến
đỉnh điểm.
- Tình huống bi kịch thúc đẩy hồn Trương Ba phải lựa
chọn với sự phản kháng mãnh liệt: “không
cần đến cái đời sống do mày mang lại. Không cần”.
=> Con người phải đấu tranh với nghịch cảnh, với
chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách.
*. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và
Đế Thích:
- Hồn Trương Ba không chấp nhận kiểu sống “bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo”, muốn được là chính mình một cách trọn vẹn.
- Đế Thích ngạc nhiên vì những yêu cầu của Trương Ba.
- Hồn Trương Ba chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “ông chỉ
nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”.
- Đế Thích khuyên Trương Ba nên chấp nhận hoàn cảnh.
Sau đó Đế Thích sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị.
- Hồn Trương Ba kiên quyết từ chối việc nhập vào xác
cu Tị vì đó cũng là một cuộc sống “còn khổ hơn cái chết”.
- Đế Thích chấp nhận yêu cầu của Trương Ba với thắc
mắc: “con người hạ giới các ông thật kì lạ”
. Quan niệm về sự sống:
- Đế Thích có cái nhìn hời hợt, phiến diện về con
người.
- Trương Ba ý thức sâu sắc về ý nghĩa của cuộc sống:
hồn và xác phải hài hoà, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác
phàm tục, tội lỗi.
* Màn kết:
- Trương Ba trả xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái
chết để được là chính mình và linh hồn được trong sạch.
- Hoá thân vào cây cỏ, các sự vật thân thưong để tồn
tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu.
→ Thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp,
của cuộc sống đích thực.
b/ Chủ đề tư tưởng:
Thông qua những màn đối thoại của vở
kịch, Lưu Quang Vũ đã đưa ra một quan niệm cao đẹp về cách sống: hãy sống chân
thật với chính mình, phải biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân
mình, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị
tinh thần cao quý.
4. Nghệ thuật:
- Xung đột giàu kịch tính.
- Ngôn ngữ đắc trưng cho ngôn ngữ kịch.
- Sự kết hợp tính hiện đại với các giá trị truyền
thống.
-
Chất thơ, chất trữ tình bay bổng.
Câu hỏi:
1. Phân tích màn đối thoại
giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt? Qua đó tác giả muốn gởi gắm điều gì?
2. Trước phản ứng của người
thân và những rắc rối, bất ổn mà mình phải chịu đựng, Trương Ba có thái độ như
thế nào?
3. Phân tích màn đối thoại
giữa hồn Trương Ba và Đế Thích? Màn đối thoại này toát lên ý nghĩa gi?
4. Theo em vì sao Trương Ba
quyết định trả xác hàng thịt, từ chối nhập vào cu Tị và chấp nhận cái chết?
5. Qua đoạn trích của vở
kịch, tác giả muốn gởi gắm đến người đọc thông điệp gì?
Bài Số phận con ngưòi:
H. VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI:
1. THUỐC
Lỗ Tấn
I. TÌM HIỂU
CHUNG
1. Tác giả
+ Lỗ Tấn (1881-1936) tên thật là
Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, miền Đông Nam Trung Quốc.
Ông là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc thế kỉ XX. “Trước Lỗ tấn chưa
hề có Lỗ Tấn; sau Lỗ Tấn có vô vàn Lỗ Tấn”
(Quách Mạt Nhược)
+ Tuổi trẻ của Lỗ Tấn đã nhiều
lần đổi nghề để tìm một con đường cống hiến cho dân tộc: từ nghề khia mỏ đến
hàng hải rồi nghề y, cuối cùng làm văn nghệ để thức tỉnh quốc dân đồng bào. Con
đường gian nan để chọn ngành nghề của Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn lịch sử Trung
Hoa thời cận hiện đại, vừa nói lên tâm huyết của một người con ưu tú của dân
tộc.
+ Quan điểm sáng tác văn nghệ của
Lỗ Tấn được thể hiện nhất quán trong toàn bộ sáng tác của ông: phê phán những
căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội, tự thoả mãn “ngủ say trong một
cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.
+ Tác phẩm chính: AQ chính truyện
(Kiệt tác của văn học hiện đại Trung Quốc và thế giới), các tập Gào thét, Bàng hoàng, Truyện cũ viết theo lối mới, hơn chục tập tạp văn có giá trị phê phán, tính
chiến đấu cao
2. Hoàn cảnh sáng tác truyện Thuốc
Thuốc được viết năm 1919, đúng
vào lúc cuộc vận động Ngũ tứ bùng nổ. Đây là thời kì đất nước Trung Hoa bị các
đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Nhật xâu xé. Xã hội Trung Hoa biến thành nửa phong
kiến, nửa thuộc địa, nhưng nhân dân lại an phận chịu nhục. “Người Trung Quốc
ngủ mê trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ” (Lỗ Tấn). Đó là căn bệnh
đớn hèn, tự thoả mãn, cản trở nghiêm trọng con đường giải phóng dân tộc. Chính
nhà cách mạng lỗi lạc thời này là Tôn Trung Sơn cũng nói: “Trung Quốc ấy với
một thông điệp: Người Trung Quốc là một con bệnh trầm trọng”. Thuốc đã ra đời trong bối cảnh ấy với
một thông điệp: cần suy nghĩ nghiêm khắc về một phương thuốc để cứu dân tộc.
II. TÌM
HIỂU VĂN BẢN
1. Bố cục
+ Phần I: Thuyên mắc bệnh lao. Mẹ Thuyên đưa tiền cho chồng ra chỗ
hành hình người cộng sản mua bánh bao tẩm máu về chữa bệnh cho con (Mua thuốc)
+ Phần II: Thuyên ăn cái bánh bao đẫm máu nhưng vẫn ho. Thuyên nghe
tim mình đập mạnh không sao cầm nổi, đưa tay vuốt ngực, lại một cơn ho (Uống
thuốc)
+ Phần III: Cuộc bàn luận trong quán trà về thuốc chữa bệnh lao, về
tên “giặc” Hạ Du (Bàn về thuốc)
+ Phần IV: Nghĩa địa vào dịp tiết Thanh minh. Hai người mẹ trước hai
nấm mồ: một của người chết bệnh, một chết vì nghĩa ở hai khu vực, ngăn cách bởi
một con đường mòn (Hậu quả của thuốc)
2. Ý nghĩa nhan đề truyện và hình tượng chiếc bánh bao
tẩm máu
Nhan đề "Thuốc"
+ Thuốc, nguyên văn là "Dược" (trong từ ghép
Dược phẩm), phản ánh một quá trình suy tư nặng nề của Lỗ Tấn (động cơ và mục
đích đổi nghề của Lỗ Tấn). Nhận thức rõ thực trạng nhận thức của người dân
Trung Quốc thời bấy giờ “ngu muội và hèn nhát”, nhà văn không có ý định và cũng
không đặt ra vấn đề bốc thuốc cho xã hội mà chỉ muốn “lôi hết bệnh tật của quốc
dân, làm cho mọi người chú ý và tìm cách chạy chữa”. Tên truyện chỉ có thể dịch
là Thuốc (Trương Chính). Vị thuốc
(Nguyễn Tuân) chứ không thể dịch là Đơn thuốc (Phan Khải). Nhan đề truyện có
nhiều nghĩa.
+ Tầng nghĩa ngoài cùng là phương
thuốc truyền thống chữa bệnh lao. Một phương thuốc u mê ngu muội giống hệt
phương thuốc mà ông thầy lang bốc cho bố Lỗ Tấn bị bệnh phù thũng với hai vị
“không thể thiếu” là rễ cây nứa kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con
cái dẫn đến cái chết oan uổng của ông cụ.
+ Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu
“Bánh
bao tẩm máu người”, nghe như chuyện thời trung cổ nhưng vẫn xảy ra ở nước
Trung Hoa trì trệ. Tầng nghĩa thứ nhất - nghĩa đen của tên truyện là: thuốc
chữa bệnh lao. Thứ mà ông bà Hoa Thuyên xem là “tiên dược” để cứu mạng thằng
con “mười đời độc đinh” đã không cứu được nó mà ngược lại đã giết chết nó - đó
là thứ thuốc mê tín.
+ Trong truyện, bố mẹ thằng
Thuyên đã áp đặt cho nó một phương thuốc quái gở. Và cả đám người trong quán
trà cũng cho rằng đó là thứ thuốc tiên. Như vậy, tên truyện còn hàm nghĩa sâu
xa hơn, mang tính khai sáng: đây là thứ thuốc độc, mọi người cần phải giác ngộ
ra rằng cái gọi là thuốc chữa bệnh lao được sùng bái là một thứ thuốc độc.
Người Trung Quốc cần phải tỉnh giấc, không được ngủ
mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có sửa sổ.
+ Chiếc bánh bao - liều thuốc độc
lại được pha chế bằng máu của người cách mạng - một người xả thân vì nghĩa, đổ
máu cho sự nghiệp giải phóng nông dân... Những người dân ấy (bố mẹ thằng
Thuyên, ông Ba, cả Khang...) lại dửng dưng, mua máu người cách mạng để chữa
bệnh.... Với hiện tượng chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du, Lỗ Tấn đã đặt ra một vấn
đề hết sức hệ trọng là ý nghĩa của hi sinh. Tên truyện vì thế mang tầng nghĩa
thứ ba: Phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng giác ngộ cách mạng và làm
cho cách mạng gắn bó với quần chúng.
3. Ý nghĩa cuộc bàn luận trong quán trà về Hạ Du
+ Chủ đề bàn luận của những người
trong quán trà của lão Hoa trước hết là công hiệu của “thứ thuốc đặc biệt” - chiếc bánh bao tẩm máu người.
+ Từ việc bàn về công hiệu của
chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du chuyển sang bàn về bản thân nhân vật Hạ Du là diễn
biến tự nhiên, hợp lí.
+ Người tham gia bàn luận tán
thưởng rất đông song phát ngôn chủ yếu vẫn là tên đao phủ Cả Khang, ngoài ra
còn một người có tên kèm theo đặc điểm (cậu Năm gù) và hai người chỉ có đặc
điểm (“Người trâu hoa râm”, “anh chàng hai mươi tuổi”).
+ Những lời bàn luận ấy, Lỗ Tấn
đã cho ta thấy:
- Bộ mặt tàn bạo, thô lỗ của Cả
Khang
- Bộ mặt lạc hậu cảu dân chúng
Trung Quốc đương thời
- Lòng yêu nước của người chiến
sĩ cách mạng Hạ Du
4. Không gian, thời gian nghệ thuật và ý nghĩa của chi
tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du
+ Câu chuyện xảy ra trong 2 buổi
sớm vào hai mùa thu, mua xuân có ý nghĩa không tượng trưng. Buổi sáng đầu tiên
có 3 cảnh: cảnh sáng tinh mơ đi mua bánh bao chấm máu người, cảnh pháp trường
và cảnh cho con ăn bánh, cảnh quán trà.... Ba cảnh gần như liên tục, diễn ra
trong mùa thu lạnh lẽo. Bối cảnh quán trà và đường phố là nơi tụ tập của nhiều
loại người do đó hình dung được dư luận và ý thức xã hội. Buổi sáng cuối cùng
là vào dịp tết Thanh minh- mùa xuân tảo mộ. Mùa thu lá rụng, mùa xuân đâm chồi
nảy lộc, gieo mầm.
+ Vòng hoa trên mộ Hạ Du: Có thể
xem vòng hoa là cực đối lập của “chiếc bánh bao tẩm máu”. Phủ định vị thuốc là bằng chiếc bánh bao tẩm máu, tác giả mơ ước
tìm kiếm một vị thuốc mới- chữa được cả những bệnh tật về tinh thần cho toàn xã
hội với điều kiện tiên quyết là mọi người phải giác ngộ cách mạng, phải hiểu rõ
“ý nghĩa của sự hi sinh” của những người cách mạng.
+ Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du
chủ đề tư tưởng tác phẩm mới được thể hiện trọn vẹn, nhờ đó mà không khí của
truyện vốn rất u buồn tăm tối song điều mà tác giả đưa đến cho người đọc không
phải là tư tưởng bi quan.
III. TỔNG
KẾT
Với cốt truyện đơn giản, cách
viết cô đọng, giàu hình ảnh mang tính biểu tượng, Thuốc của Lỗ Tấn thể hiện một nội dung sâu sắc: một dân tộc chưa ý
thức được “bệnh tật” của chính mình và chưa có được ánh sáng tư tưởng cách
mạng, dân tộc đó vẫn chìm đắm trong mê muội.
IV/ ĐỀ THAM KHẢO
Câu 1 : Trình bày ngắn gọn cuộc
đời và sự nghiệp văn chương của LỖ TẤN
a/ Cuộc đời :
Lỗ Tấn
tên thật là Chu Thụ Nhân , là nhà văn cách mạng nổi tiếng của nền văn học hiện
đại Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX , sinh
năm 1881 , mất 1936 , xuất thân trong một gia đình quan lại sa sút ở tỉnh Chiết
giang TQ .
Ông là
một trí thức yêu nước có tư tưởng tiến bộ , học nhiều nghề : Khai mỏ , hàng hải
, nghề thuốc , cuối cùng quyết tâm làm văn nghệ vơí mong muốn cứu nước , cứu
dân .
Lỗ Tấn
chủ trương dùng ngòi bút để phanh phui căn bệnh tinh thần cho quốc dân với chủ
đề “phê phán quốc dân tính” , nhằm làm thay đổi căn bệnh tinh thần cho nhân dân
Trung Hoa .
b/ Sự nghiệp :
Lỗ Tấn
đã để lại tác phẩm , được in thành 3 tập : Gào thét , Bàng Hoàng , Chuyện cũ
viết theo lối mới .
Ông
xứng đáng lànhà văn hiện thực xuất sắc của TQ , năm 1981 cả Thế giới kỉ niệm
100 năm sinh và tôn vinh ông là danh nhân văn hoá thế giới .
Câu 2 : Tóm tắt truyện “THUỐC” – Lỗ Tấn .Thuốc
được đăng trên tạp chí Tân Thanh Niên
số tháng 5 – 1919, sau đó in trong tập Gào
Thét xuất bản 1923 .
Vợ chồng lão Hoa Thuyên
– chủ quán trà có con trai bị bệnh lao(căn bệnh nan y thời bấy giờ) . Nhờ người
giúp , lão Hoa Thuyên đi tìm mua chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù về cho con
ăn , vì cho rằng như thế sẽ khỏi bệnh .
Lão Thuyên dành dụm tiền mua bánh bao tẩm máu người tử tù về cho con ăn
Sáng
hôm sau ,trong quán trà mọi người bàn tán về cái chết của người tử tù vừa bị chém sáng nay . Đó là Hạ Du , một nhà cách
mạng kiên cường , nhưng chẳng ai hiểu gì về anh , nhiều người cho anh điên. Thế
rồi , thằng Thuyên cũng chết vì chiếc bánh bao ấy không trị được bệnh lao.
Năm sau
vào tiết Thanh minh , mẹ Hạ Du và bà Hoa
Thuyên đến bãi tha ma viếng mộ con . Gặp nhau , hai người mẹ đau khổ có sự đồng
cảm với nhau . Họ rất ngạc nhiên khi
thấy trên mộ Hạ Du xuất hiện vòng hoa
trắng hồng xen lẫn nhau . Đây điểm sáng để kết thúc câu chuyện bi thảm , bày tỏ
quyết tâm tiếp bước người đã khuất .
è Nội dung tác phẩm : Phản ánh sự u mê của nhân dân
TQ trước cách mạng Tân Hợi, sự lạc hậu về chính trị của quần chúng đối với
người làm cách mạng và bi kịch của người cách mạng tiên phong Hạ Du
Câu 3 : Giải thích ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn.
-Vạch
trần sự u mê, lạc hậu,mê tín của người dân Trung Quốc tin rằng chiếc bánh bao
tẩm máu người là một phương thuốc chữa
được bệnh lao .
-Thuốc
còn là phương thuật giác ngộ quần chúng đấu tranh tự giải thoát khỏi hàng nghìn
năm phong kiến đã đè nặng lên đời sống người dân TQ .
Câu 4 : Trước khi trở thành nhà văn,
Lỗ Tấn đã học những nghề nào? Tại sao cưối cùng ông chuyển sang làm văn nghệ ?
Nêu tên 3 tác phẩm của ông.
- Trước khi trở thành nhà văn Lỗ
Tấn đã học những nghề : Hàng hải với ước mong mở rộng tầm mắt – học nghề khai
thác mỏ với nguyện vọng làm giàu cho tổ quốc – học nghề y để chữa bệnh cho dân
nghèo như bố ông.
- Đang
học y khoa ở Tiên Đài (Nhật) ,ông đột ngột đổi nghề Vì : Một lần xem phim ,ông
thấy người TQ khỏe mạnh hăm hở đi xem người Nhật chém người TQ làm gián điệp
cho Nga ( chiến tranh Nga –Nhật), ông giật mình, nghĩ rằng chữa bệnh thể xác
không bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân. Oâng chủ trương dùng ngòi bút để
phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân và lưu ý mọi người tìm phương chữa
trị .
Câu 5 :Ý nghĩa bao trùm tác phẩm
THUỐC – Lỗ Tấn.Hạ Du người cách mạng bị xử tử , là nhân vật
trung tâm trong tác phẩm chỉ được nhắc qua
những mẫu đối thoại trong quán trà. Truyện phê phán tập quán chữa bệnh
phản khoa học . Hình ảnh lão Hoa Thuyên “vội
vàng móc gói bạc trong túi ra mua chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi,máu còn nhỏ
tửng giọt,...”cho thấy sự mê tín của quần chúng và dã tâm của bọn đồ tể bán
máu người.
- Hạ Du
là người chiến sĩ cách mạng đã hi sinh :
Tác phẩm phê phán sự lạc hậu về chính trị của quần chúng “ Cái
thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa ... nằm trong tù mà còn dám rủ lão đề lao
làm giặc (... ) hắn điên thật rồi !”
2. SỐ PHẬN
CON NGƯỜI
(Sô-lô-khốp)
I.Tác giả:
- Sô-lô-khôp (1905-1984) là nhà văn Nga được liệt
vào hàng các nhà văn lớn nhất TK XX.
- Quê quán: tỉnh Rôx-tôp trên vùng thảo nguyên
sông Đông.
-
Ông tham gia cách mạng khá sớm.
-
Cuối năm 1922, ông dến Mát-xơ-va, làm nhiều nghề để kiếm sống. Thời gian rảnh,
ông tự học và tự đọc văn học để tích luỹ kiến thức.
-
Năm 1925, ông trở về quê và bắt đầu viết tiểu thuyết Sông Đông êm đềm.
-
Năm 1939, ông được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô.
-
Trong thời gian chiến tranh vệ quốc, với tư cách là phóng viên, ông xông pha
trên nhiều mặt trận.
- Đề
tài sáng tác: cuộc sống và con người vùng sông Đông sau cách mạng tháng Mười và
trong thời kì nội chiến. Ông còn nổi tiếng khi viết về số phận con người sau
chiến tranh.
-
Năm 1965, ông vinh dự được nhận giải thưởng Nô-ben về văn học. Tác phẩm của ông
được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
II.Tác phẩm “Số phận con người”:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
-
Truyện ngắn này được in lần đầu ở Liên Xô trên hai số báo “sự thật” ra ngày
31-12-1956 và ngày 1-1-1957. Chỉ trong vòng một tuần lễ ông đã viết xong tác
phẩm vì ý đồ sáng tác đã được ấp ủ từ lâu.
-
Tác phẩm thể hiện những tư tưởng và tình cảm lớn mà nhà văn nung nấu trong
nhiều năm.
2. Tóm tắt tác phẩm:
-
Người kể chuyện (tác giả) tình cờ gặp anh lái xe An-đrây Xô-cô-lốp và cậu bé
Va-ni-a trên vùng sông Đông. An-đrây đã kể lại cho tác giả nghe về cuộc đời của
mình:
Cả nhà anh chết trong một nạn
đói năm 1922, chỉ mình anh làm thuê nên sống sót. Sau đó anh lấy vợ và có một
tổ ấm gia đình.
Khi chiến tranh bùng nổ,
Xô-cô-lốp lên đường ra mặt trận, chiến đấu được một năm thì bị bắt làm tù binh.
-
Sau hai năm bị đày đoạ trong các trại tù binh của phát xít Đức, anh vượt trại
tù, trở về với Hồng quân và tiếp tục chiến đấu. Thời gian sau, anh nhận được
tin vợ và hai con gái của mình bị bom của quân Đức giết hại. Vào những ngày
cuối cùng của cuộc chiến tranh, bất hạnh lại ập đến với Xô-cô-lốp khi anh nhận
được tin con trai của mình đã hi sinh. Niềm hi vọng cuối cùng tan vỡ.
-
Chiến tranh kết thúc, vượt lên trên nỗi bất hạnh, Xô-cô-lốp đã nhận nuôi cậu bé
mồ côi Va-ni-a với hi vọng hai tâm hồn cô đơn sẽ nương tựa vào nhau, sưởi ấm
cho nhau để chiến thắng số phận.
3. Nội dung:
a. Số phận con người qua hình tượng Xô-cô-lốp:
-
Xô-cô-lốp phải gánh chịu những mất mát tưởng như quá sức chịu đựng của con
người.
-
Chiến tranh kết thúc, người lính Xô Viết trở về với cuộc đời thường trong sự cô
độc.
Xô-cô-lốp rơi vào tâm trạng
đau đớn tột cùng.
-
Tai hoạ không chỉ đến với gia đình Xô-cô-lốp, thảm cảnh của gia đình bế Va-ni-a
cũng không thua kém.
-
Trong cuộc sống thường, Xô-cô-lốp tiếp tục đối mặt với éo le, trắc trở (câu
chuyện anh đụng phải con bò và bị tước bằng lái)
* Những đau thương, mất mát
của Xô-cô-lốp, Va-ni-a không phải là cá biệt mà khá tiêu biểu cho những gì nhân
dân Nga đã phải chịu đựng trong chiến tranh và sau chiến tranh.
b.Phẩm chất của người lính Nga Xô-cô-lốp:
-
Tấm lòng nhân ái đã giúp con người vượt lên trên nỗi cô đơn, đồng thời xoa dịu
nỗi đau của con người.
+
Xô-cô-lốp nhận Va-ni-a làm con nuôi để hai trái tim đau khổ sưởi ấm cho nhau.
+
Tấm lòng nhân hậu, tình thương mộc mạc, bộc trực dành cho Va-ni-a đã đem lại
niềm vui cho anh.
-
Xô-cô-lốp còn là một người có ý chí kiên cường cứng cỏi trong cuộc sống đời
thường đầy khó khăn:
+
Anh cố nén đau thương, chịu đựng một mình để không làm u ám tâm hồn đứa trẻ.
+
Ban ngày anh bao giờ cũng trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài dù ban
đêm gối đẫm nước mắt.
+
Con người có ý chí kiên cường đó sẽ vượt qua mọi thử thách trên con đường vươn
tới hạnh phúc.
*
Truyện đã khám phá và ca ngợi tính cách Nga: kiên cường và nhân hậu.
4. Nghệ thuật:
-
Cách kể chuyện: truyện lồng trong truyện làm cho câu chuyện chân thật, sinh
động, lôi cuốn người đọc.
-
Lời trữ tình ngoại đề: thể hiện sự ngưỡng mộ và cảm thông của nhà văn.
-
Khắc họa chân dung và theo dõi tâm trạng nhân vật.
-
Chọn lọc chi tiết.
Câu hỏi:
1. Những đau đớn, mất mát mà
Xô-cô-lốp và gia đình Va-ni-a phải gánh chịu? Qua đó Sô-lô-khốp nghĩ gì về số
phận con người?
2. Tâm hồn ngây thơ và lòng
nhân hậu của Xô-cô-lốp được biểu hiện như thế nào trong đoạn trích?
3. Tính cách Nga được bộc lộ
như thế nào qua nhân vật Xô-cô-lốp?
4. Ý nghĩa của lời trữ tình
ngoại đề ở cuối tác phẩm?
5. Nét mới của truyện ngắn
“số phận con người” trong việc miêu tả cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân
dân Liên Xô?
V. CÂU HỎI
THAM KHẢO
Câu 1: Trình bày tóm tắt tiểu
sử và sự nghiệp của Mikhaiin Sôlôkhốp ,
sáng tác nổi tiếng nhất là tác phẩm nào ?
Sôlôkhốp sinh năm 1905 ở
tỉnh Rôxtôp , vùng sông Đông nước Nga
.
Nhà văn
gắn bó máu thịt với con người và cảnh vât vùng đất sông Đông .
Sôlôkhốp
trực tiếp tham gia nội chiến và chiến tranh vệ quốc
Ông là
nhà văn nổi tiếng thế giới đã được nhận giải nô ben văn học .
Tác
phẩm nổi tiếng là bộ tiểu thuyết ‘’SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM’’.
Câu2: Trình bày tiểu sử và sự nghiệp của Mikhain
Sôlôkhôp .
Mikhaiin SôlôKhôp là nhà văn Nga sinh năm 1905 , mất 1984 , xuất thân trong một gia đình
nông dân vùng thảo nguyên cạnh sông Đông
.
Ông rất
gắn bó với con người và cảnh vật quê hương trong những bước chuyển mình đau đớn
và phức tạp của lịch sử . Chính vì thế tác phẩm của ông thấm đẫm hơi thở và
linh hồn của cuộc sống vùng sông Đông .
Sôlô Khốp
là người trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại , ông thấu hiểu
được những nỗi khổ đau và số phận con người trong cuộc chiến tranh . Chính điều
này đã tạo ra một bước ngoặc trong các sáng tác của ông .
Sôlô Khôp
được trao tặng giải thưởng nô ben về văn học năm 1965 .
*Sự nghiệp :
Sôlô Khôp là nhà văn xuất sắc của nước Nga , ông đã để
lại nhiều tác phẩm có giá trị như : Những truyện ngắn sông Đông , Sông Đông êm đềm ,
Số phận con người , …….
Câu 3: Tóm tắt tác phẩm ‘’số phận con người ‘’ Sôlôkhốp .
Nhân
vật chính trong tác phẩm là Xôcôlôp .
Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ , Xôcôlôp nhập ngũ rồi bị thương . Sau đó , anh bị đoạ
đày trong trại giam của bọn phát xít . Khi thoát khỏi nhà tù ,anh nhận được tin
vợ và con gái bị bom giặc sát hại . người con trai duy nhất của anh cũng đã
nhập ngũ và đang cùng anh tiến về đánh Berlin
. Nhưng đúng ngày chiến thắng , con trai anh đã bị kẻ thù bắn chết . Niềm hi
vọng cuối cùng của anh tan vỡ .
Kết
thúc chiến tranh , Xôcôlôp giải ngũ ,
làm lái xe cho một đội vận tải và ngẫu nhiên anh gặp được bé Vania . Cả bố mẹ em đều bị bắn chết
trong chiến tranh , chú bé phải sống bơ vơ không nơi nương tựa . Anh Vania làm con nuôi và yêu thương, chăm
sóc chú bé thật chu đáo và coi đó là một
nguồn vui lớn .
Tuy vậy
, Xôcôlôp vẫn bị ám ảnh bởi những nỗi
đau buồn vì mất vợ , mất con “nhiều đêm
thức giấc gối ướt đẫm nước mắt” anh
thương thay đổi chỗ ở nhưng anh vẫn cố giấu không cho bé Vania biết nỗi khổ của mình .
è Nội dung tác phẩm ‘’Số phận con người’’ : Số
phận con người nhỏ bé trước hiện thực
tàn khốc của chiến tranh , vẻ đẹp tính cách Nga kiên cường nhân hậu .
Câu 4: Ý nghĩa bao trùm tác phẩm “SỐ PHẬN CON NGƯỜI”
- Nhân
vật chính trong tác phẩm là Xôcôlôp có
cuộc đời gặp nhiều bất hạnh . Nhưng anh vẫn thể hiện được nét tính cách Nga
kiên cường và nhân hậu :
* Tính cách kiên cường :
+ Trong chiến tranh ,anh chịu quá nhiều bất
hạnh . Sau chiến tranh, anh lại sống trong cô đơn, đau khổ, phiêu bạt nhiều nơi
để kiếm sống . Nhưng anh vẫn không thốt
một lời than vãn, không suy sụp tinh thần,không sa ngã, không rơi vào bế tắc,
tuyệt vọng.
+ Với bản lĩnh cao đẹp, với tấm lòng nhân hậu
thắm thiết, anh trở thành chỗ dựa vững chắc cho bé Vania ( bố mẹ đã chết trong
chiến tranh).
Tấm lòng nhân hậu :
+
Xôcôlôp nhận nuôi béø Vania từ tính thương “Với niềm vui không lời tả xiết” không
tính toán ,vụ lợi .
+ Yêu thương ,chăm sóc
chu đáo cho Vania hơn cả người cha đối với con.
+
Những mất mát , đau thương ,anh âm thầm chịu đựng “nhiều đêm thức giấc thì gối ướt đẫm nước mắt”, không cho bé Vania
biết, vì sợ em buồn .
- Hai
số phận bất hạnh đặt cạnh nhau ,đã kết hợp với nhau, biết nương tựa vào
nhau để vươn lên và không ngừng hi vọng vào cuộc sống là phẩm chất tuyệt vời của những con người chân chính..
3. ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ
(Trích)
Hê-minh-uê
I. TÌM HIỂU
CHUNG
1. O-nit Hê-minh-uê (1899- 1961):
+ Nhà văn Mĩ để lại dấu ấn sâu
sắc trong văn xuôi hiện đại phương Tây và góp phần đổi mới lối viết truyện,
tiểu thuyết của nhiều thế hệ nhà văn trên thế giới.
+ Những tiểu thuyết nổi tiễng của
Hê-minh-uê: Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Chuông nguyện hồn ai (1940).
+ Truyện ngắn của Hê-minh-uê được
đánh giá là những tác phẩm mang phong vị độc đáo hiếm thấy. Mục đích của nhà
văn là "Viết một áng văn xuôi đơn giả và trung thực về con người".
2. Ông già và biển cả (The old man and the sea)
+ Được xuất bản lần đầu trên tạp
chí Đời sống.
+ Tác phẩm gây tiếng vang lớn và
hai năm sau Hê-minh-uê được trao giải Nô-ben.
+ Tóm tắt tác phẩm (SGK).
+ Tác phẩm tiêu biểu cho lối viết
"Tảng băng trôi": dung lượng câu chữ ít nhưng "khoảng
trống" được tác giả tạo ra nhiều, chúng có vai trò lớn trong việc tăng các
lớp nghĩa cho văn bản (Tác giả nói rằng tác phẩm lẽ ra dài cả 1000 trang nhưng
ông đã rút xuống chỉ còn bấy nhiêu thôi).
3. Đoạn trích
+ Đoạn trích nằm ở cuối truyện.
+ Đoạn trích kể về việc chinh
phục con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-gô. Qua đó người đọc cảm nhận được nhiều
tầng ý nghĩa đặc biệt là vẻ đẹp của con người trong việc theo đuổi ước mơ giản
dị nhưng rất to lớn của đời mìnhvà ý nghĩa biểu tượng của hình tượng con cá
kiếm.
II. TÌM
HIỂU VĂN BẢN ĐOẠN TRÍCH
1. Hình ảnh ông lão và con cá kiếm
+ Xan-ti-a-gô là một ông
già đánh cá ở vùng nhiệt lưu. Đã ba ngày hai đêm ông ra khơi đánh cá. Khung
cảnh trời biển mênh mông chỉ một mình ông lão. Khi trò chuyện với mây nước, khi
đuổi theo con cá lớn, khi đương đầu với đàn cá mập xông vào xâu xé con cá. Cuối
cùng kiệt sức vào đến bờ con cá kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương. Câu chuyện đã mở
ra nhiều tầng ý nghĩa . Một cuộc tìm kiếm con cá lớn nhất, đẹp nhất đời, hành
trình nhọc nhằn dũng cảm của người lao động trong một xã hội vô hình, thể
nghiệm về thành công và thất bại của người nghệ sĩ đơn độc khi theo đuổi ước mơ
sáng tạo rồi trình bày nó trước mắt người đời...
+ Đoạn trích có hai hình
tượng: ông lão và con cá kiếm. Hai hình tượng mang một vẻ đẹp song song tương
đồng trong một tình huống căng thẳng đối lập:
- Con cá kiếm mắc câu bắt
đầu những vòng lượn “vòng tròn rất lớn”, “con cá đã quay tròn”. Nhưng con cá
vẫn chậm rãi lượn vòng”. Những vòng lượn được nhắc lại rất nhiều lần gợi ra
được vẻ đẹp hùng dũng, ngoan cường của con cá trong cuộc chiến đấu ấy.
- Ông lão ở trong hoàn
cảnh hoàn toàn đơn độc, “mệt thấu xương” “hoa mắt” vẫn kiên nhẫn vừa thông cảm
với con cá vừa phải khuất phục nó.
- Cuộc chiến đấu đã tới chặng cuối, hết sức
căng thẳng nhưng cũng hết sức đẹp đẽ. Hai đối thủ đều dốc sức tấn công và dốc
sức chống trả. Cảm thấy chóng mặt và choáng váng nhưng ông lão vẫn ngoan cường
“Ta không thể tự chơi xỏ mình và chết trước một con cá như thế này được” lão
nói. Ông lão cảm thấy “một cú quật đột ngột và cú nảy mạnh ở sợi dây mà lão
đang níu bằng cả hai tay”. Lão hiểu con cá cũng đang ngoan cường chống trả. Lão
biết con cá sẽ nhảy lên, lão mong cho điều đó đừng xảy ra “đừng nhảy, cá” lão
nói, “đừng nhảy”, nhưng lão cũng hiểu “những cú nhảy để nó hít thở không khí”.
Ông lão nương vào giớ chò “lượt tới nó lượn ra, ta sẽ nghỉ”. “Đến vòng thứ ba,
lão lần đầu tiên thấy con cá”. Lão không thể tin nỗi độ dài của nó “ “không”
lão nói, “Nó không thể lớn như thế được”. Những vòng lượn của con cá hẹp dần.
Nó đã yếu đi nhưng nó vẫn không khuất phục, “lão nghĩ: “Tao chưa bao giờ thấy
bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày”. Ông lão cũng
đã rất mệt có thể đổ sụp xuống bất kì lúc nào. Nhưng ông lão luôn nhủ “mình sẽ
cố thêm lần nữa”. Dồn hết mọi đau đớn và những gì còn lại của sức lực và lòng
kiêu hãnh, lão mang ra để đương đầu với cơn hấp hối của con cá. Ông lão nhấc
con ngọn lao phóng xuống sườn con cá “cảm thấy mũi sắt cắm phập vào, lão tì
người lên ấn sâu rồi dồn hết trọng lực lên cán dao”. Đây là đòn đánh quyết định
cuối cùng để tiêu diệt con cá. Lão rất tiếc khi phải giết nó, nhưng vẫn phải
giết nó.
- “Khi ấy con cá, mang
cái chết trong mình, sực tỉnh phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng
lồ, vẻ đẹp và sức lực của nó”. Cái chết của con cá cũng bộc lộ vẻ đẹp kiêu dũng
hiếm thấy cả ông lão và con cá đều là kì phùng địch thủ. Họ xứng đáng là đối
thủ của nhau.
- Nhà văn miêu tả vẻ đẹp của con
cá cũng là để đề cao vẻ đẹp của con người. Đối tượng chinh phục càng cao cả,
đẹp đẽ thì vẻ đẹp của con người đi chinh phục càng được tôn lên. Cuộc chiến đấu
gian nan với biết bao thử thách đau đớn đã tôn vinh vẻ đẹp của người lao động:
giản dị và ngoan cường thực hiện bằng được ước mơ của mình.
2. Nội dung tư tưởng của đoạn trích
Hình tượng con cá kiếm được phát
biểu trực tiếp qua ngôn từ của người kể chuyện, đặc biệt là qua những lời trò
chuyện của ông lão với con cá ta thấy ông lão coi nó như một con người. Chính
thái độ đặc biệt, khác thường này đã biến con cá thành “nhân vật” chính thứ hai
bên cạnh ông lão, ngang hàng với ông. Con cá kiếm mang ý nghĩa biểu tượng. Nó
là đại diện cho hình ảnh thiên nhiên tiêu biểu cho vẻ đẹp , tính chất kiên hùng
vĩ đại của tự nhiên. Trong mối quan hệ phức tạp của thiên nhiên với con người
không phải lúc nào thiên nhiên cũng là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể
vừa là bạn vừa là đối thủ. Con cá kiếm là biểu tượng của ước mơ vừa bình thường
giản dị nhưng đồng thời cũng rất khác thường, cao cả mà con người ít nhất từng
theo đuổi một lần trong đời.
3. Nghệ thuật đoạn trích
Đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện trong
tác phẩm Ông già và biển cả của
Hê-minh-uê có ngôn ngữ của người kể chuyện và ngôn ngữ trực tiếp của ông già
được thể hiện bằng: “lão nghĩ.....”, “lão nói ....”
+ Ngôn ngữ của người kể chuyện tường thuật khách quan sự
việc.
+ Lời phát biểu trực tiếp của ông
lão. Đây là ngôn từ trực tiếp của nhân vật. Có lúc nó là độc thoại nội tâm.
Nhưng trong đoạn văn trích nó là đối thoại. Lời đối thoại hướng tới con cá
kiếm:
“Đừng nhảy, cá”, lão nói. “Đừng
nhảy”.
“Cá ơi”, ông lão nói “cá này, dẫu
sao thì mày cũng sẽ chết. Mày muốn tao cùng chết nữa à?”
“Mày đừng giết tao, cá à, ông lão
nghĩ “ mày có quyền làm thế”. “Tao chưa từng thấy bất kỳ ai hùng dũng, duyên
dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ”.
+ Ý nghĩa của lời phát biểu trực
tiếp:
- Đưa người đọc như đang trực
tiếp chứng kiến sự việc.
- Hình thức đối thoại này chứng
tỏ Xan-ti-a-gô coi con cá kiếm như một con người.
- Nội dung đối thoại cho thấy ông
lão chiêm ngưỡng nó thông cảm với nó và cảm thấy nuối tiếc khi tiêu diệt nó.
- Mối quan hệ giữa con người và
thiên nhiên
- Ý nghĩa biểu tượng của con cá
kiếm
- Vẻ đẹp của con người trong hành
trình theo đuổi và đạt được ước mơ của mình.
III. TỔNG KẾT
Đoạn văn tiêu biểu cho phong cách
viết độc đáo của Hê-minh-uê: luôn đặt con người đơn độc trước thử thách. Con
người phải vượt qua thử thách vượt qua giới hạn của chính mình để luôn vươn tới
đạt được mước mơ khát vọng của mình. Hai hình tượng ông lão và con cá kiếm đều
mang ý nghĩa biểu tượng gợi ra nhiều tầng nghĩa của tác phẩm. Đoạn văn tiêu
biểu cho nguyên lý “Tảng băng trôi “ của Hê-minh-uê.
IV. CÂU HỎI
THAM KHẢO
Câu 1: Trình bày vắn tắt cuộc đời và sự nghiệp HÊ-MINH-UÊ
a/ Cuộc đời :
Hê-minh-uê
là nhà văn Mĩ , sinh năm 1899 mất năm
1961,sinh trưởng trong một gia đình trí thức khá giả , là người từng đoạt giải
Nobel về văn học.
Ông yêu
thích thiên nhiên hoang dại, thích phiêu lưu mạo hiểm ,sống giản dị, gần gũi
quần chúng và từng tham gia nhiều cuộc chiến tranh.
Hê-minh-uê có
một cuộc đời đầy sóng gió , một cây bút xông xáo không mệt mỏi .Ông là ngưòi đề
xướng ra nguyên lí “ Tảng băng trôi” (Đại thể
là nhà văn không trực tiếp phát ngôn cho ý tưởng của mình mà xây dựng hình
tượng có nhiều sức gợi để người đọc có
thể rút ra phần ẩn ý ).
b/
Sự nghiệp :
Sự nghiệp văn chương của ông khá đồ sộ , trong đó có
những tác phẩm tiêu biểu : Giã từ vũ khí , Ông già và biển cả , Chuông nguyện hồn
ai , ...
Câu 2 : Tóm tắt tác phẩm “Ông gìa và biển cả” –Hê-minh-uê .
Ông già Xan-ti-a-gô đánh cá ở vùng nhiệt lưu ,
nhưng đã lâu không kiếm được con cá nào
. Đêm ngủ ông mơ về thời trai trẻ với tiếng sóng gào , hương vị biển ,
những con tàu , những đàn sư tử . Thả mồi ông đối thoại với chim trời , cá biển
.
Thế rồi
, một con cá lớn tính khí kì quặc mắc mồi . Đây là một con cá Kiếm to lớn , mà ông hằng mong ước . Sau
cuộc vật lộn cực kỳ căng thẳng và nguy hiểm, Xanchiagô giết được con cá .
Nhưng lúc ông già quay
vào bờ , từng đàn cá mập hung dữ đuổi theo rỉa thịt con cá Kiếm . Ông phải đơn độc chiến đấu đến kiệt sức với lũ cá
mập . Tuy vậy , ông vẫn nghĩ “ không ai
cô đơn nơi biển cả” . Khi ông già mệt rả rời quay vào bờ thì con cá Kiếm
chỉ còn trơ lại bộ xương .Câu 3 : Em hiểu
như thế nào về nguyên lí “Tảng băng
trôi”
Hêminguê
lấy hình ảnh tảng băng trôi phần nổi ít ,phần chìm nhiều đặt ra yêu cầu đối với
tác phẩm văn chương phải tạo ra “ ý tại
ngôn ngoại” . Nhà văn không trực
tiếp công khai phát ngôn cho ý tưởng của mình mà xây dựng hình tượng có nhiều
sức gợi để người đọc tự rút ra phần ẩn ý . một trong những biện pháp chủ yếu
thể hiện nguyên lí “Tảng băng trôi”
là độc thoại nội tâm kết hợp dùng ẩn dụ, biểu tượng.
I. LÀM VĂN:
1. NGHỊ
LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG ĐẠO LÝ
I. Dàn ý bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
1. Mở bài: - Giới thiệu
- Nêu tư tưởng, đạo
lí cần nghị luận
2. Thân bài
-Luận điểm 1: Giải thích rõ nội dung
tư tưởng đạo lí (Bằng cách giải thích các từ ngữ, các khái niệm..)
- Luận điểm 2: Phân tích các mặt đúng
của tư tưởng đạo lí (Dùng dẫn chứng từ cuộc sống và văn học để chứng minh)
- Luận điểm 3: Bác bỏ những biểu hiện
sai lệch có liên quan đến tư tưởng đạo lí (Dùng dẫn chứng từ cuộc sống và văn
học để chứng minh)
- Luận điểm 4: Đánh
giá ý nghĩa tư tưởng đạo lí đã nghị luận.
3. Kết bài: - Khái quát lại vẫn đề cần nghị luận.
- Nêu ý nghĩa và rút
ra bài học nhận thức từ tư tưởng đạo lí đã nghị luận
II. Đề bài tham khảo
Đề: Nhà
văn Nga Lép Tôn-xtôi nói: “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý tưởng
thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc
sống”.
Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò
của lý tưởng và lý tưởng riêng của mình.
Tìm hiểu đề:
- Nội dung: Suy nghĩ về vai trò của lý
tưởng nói chung đối với mọi người và lý tưởng riêng của mình.
+ Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường; không có lý tưởng thì
không có cuộc sống.
+ Nâng vai trò của lý tưởng lên tầm cao ý nghĩa của cuộc
sống.
+ Giải thích mối quan hệ lý tưởng và ngọn đèn, phương
hướng và cuộc sống.
- Phương pháp nghị luận: Phân tích, giải thích, bình
luận, chứng minh.
- Phạm vi tư liệu: Cuộc sống.
Lập dàn ý:
a. Mở bài:
Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề tư tưởng, đạo lý cần nghị
luận.
b. Thân bài:
(gợi ý)
- Lý tưởng là gì? Tại sao nói lý tưởng là ngọn đèn chỉ
đường? Ngọn đèn chỉ đường là gì? Nó quan trọng như thế nào?
(Lý tưởng giúp cho con người không đi lạc đường. Khả năng
lạc đường trước cuộc đời là rất lớn nếu không có lý tưởng tốt đẹp.)
- Lý tưởng và ý nghĩa cuộc sống:
Lý tưởng xấu có thể làm hại cuộc đời của một người và
nhiều người. Không có lý tưởng thì không có cuộc sống.
- Lý tưởng tốt đẹp , thực sự có vai trò chỉ đường.
- Lý tưởng riêng của mỗi người.
Vấn đề bức thiết đặt ra cho mỗi học sinh tốt nghiệp THPT
là chọn ngành nghề, một ngưỡng cửa để bước vào thực hiện lý tưởng.
c. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề.
- Nêu ý nghĩa và rút ra bài học nhận thức từ tư tưởng đạo
lí đã nghị luận.
2. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG
ĐỜI SỐNG
I. Dàn ý bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
1. Mở bài: Giới thiệu hiện tượng
đời sống cần nghị luận
2. Thân bài
- Luận điểm 1: Nêu rõ hiện
tượng đời sống cần nghị luận.
- Luận điểm 2: Phân tích các
mặt đúng - sai, lợi - hại của hiện tượng đời sống đang nghị luận (Dùng
dẫn chứng từ cuộc sống để chứng minh)
- Luận điểm 3: Chỉ ra nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng đời sống trên ( Dùng dẫn chứng từ cuộc sống để
chứng minh)
- Luận điểm 4: Đánh giá hiện
tượng đời sống đang nghị luận
3. Kết bài: - Khái quát lại vấn đề đang nghị luận.
- Bày tỏ thái độ của
bản thân về hiện tượng đời sống đang nghị luận
II. Đề tham khảo
Đề: Anh (chị), hãy trình bày quan điểm của mình
trước cuộc vận động “Nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành
tích trong giáo dục”.
1. Tìm hiểu đề.
- Nội dung bình luận: hiện tượng tiêu
cực trong thi cử hiện nay.
- Kiểu bài:nghị luận xã hội với các thao tác bình luận,
chứng minh…
- Tư liệu: trong đời sống xã hội.
2. Lập dàn ý (gợi ý)
a) Mở bài.
Nêu hiện tượng, trích dẫn đề, phát
biểu nhận định chung…
b) Thân bài.
- Phân tích hiện tượng.
+ Hiện tượng tiêu cực trong thi cử
trong nhà trường hiện nay là một hiện tượng xấu cần xoá bỏ, nó làm cho học sinh
ỷ lại, không tự phát huy năng lực học tập của mình…
+ Hiện tượng lấy tỉ lệ để nâng thành
tích của nhà trường.
+ Hãy nói không với tiêu cực trong thi
cử và bệnh thành tích trong giáo dục.
- Bình luận về hiện tượng.
+ Đánh giá
chung về hiện tượng.
+ Phê phán các
biểu hiện sai trái:
. Thái độ học
tập gian lận.
. Phê phán
hành vi cố tình vi phạm, làm mất tính công bằng của các kì thi.
c) Kết bài.
- Kêu gọi học sinh có thái độ đúng đắn
trong thi cử.
- Phê phán bệnh thành tích trong giáo
dục.
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT
PHAN CHÂU TRINH Năm học 2008 - 2009
------***------ Môn:
Ngữ văn
Thời gian làm bài: 150 phút
(Không kể thời gian giao đề)
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ
SINH: (5,0 điểm)
Câu I. (2,0 điểm)
Anh ( chị ) hãy tóm tắt truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn.
Câu II. (3,0 điểm)
Hiện nay ở nước ta có nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức thu nhận trẻ em
cơ nhỡ, lang thang kiếm sống trong các thành phố, thị trấn về những mái ấm tình
thương để nuôi dạy, giúp các em học tập, rèn luyện, vươn lên sống lành mạnh,
tốt đẹp.
Anh (chị) hãy bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng đó.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương
trình đó (câu III.a, hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình
Chuẩn (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh hoặc chị về nhân vật tôi trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Câu III.b. Theo chương trình
Nâng cao (5,0 điểm)
Anh (chị) hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Đàn ghita của
Lor-ca của Thanh Thảo:
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
(Ngữ văn 12
Nâng cao, tập một, NXB Giáo duc, 2008, tr.132)
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
PHAN CHÂU TRINH
------***------
HƯỚNG DẪN CHẤM THI TỐT
NGHIỆP THPT
Năm học 2008 - 2009
Môn: Ngữ văn
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ
SINH (5,0 điểm)
Câu I. (2,0 điểm)
a. Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể diễn
đạt bằng nhiều cách khác nhau, song cần nêu được các ý chính sau:
- Vợ chồng Hoa Thuyên- chủ một quán trà nghèo- có
đứa con trai độc nhất mắc bệnh lao nặng. Nhờ có người mách bảo, vào một đêm thu
lúc trời chưa sáng hẳn, Lão Hoa Thuyên tìm tới pháp trường để mua chiếc
bánh bao tẩm máu người vừa chịu án chém về cho con ăn vì cho rằng ăn như thế
con sẽ khỏi bệnh.
- Vợ chồng Hoa Thuyên cho bé Thuyên ăn thuốc. Thằng bé thật tiều
tuỵ, đáng thương. Vợ chồng Hoa Thuyên đặt hết niềm tin tưởng vào sự hiệu nghiệm
của phương thuốc này.
- Trời vừa sáng, lúc bé Thuyên ăn thuốc xong, quán
trà nhà lão Hoa Thuyên dần đông khách. Câu chuyện của bọn họ xoay quanh hai sự
việc. Sự việc thứ nhất là tất thảy bọn họ đều tin tưởng vào công hiệu của
phương thuốc bánh bao tẩm máu tươi mà thằng bé vừa ăn . Sự việc thứ hai là
chuyện bàn tán về người tù bị chém sáng nay. Qua lời của Cả Khang thì người bị chém tên
là Hạ Du. Hạ Du theo đuổi lí tưởng đánh đổ nhà Mãn Thanh, giành độc lập, chủ
quyền cho người Trung Quốc (Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta). Hạ
Du bị người bà con tố giác và bị bắt. Trong tù Hạ Du vẫn tuyên truyền tư tưởng
cách mạng. Tuy nhiên, tất cả những người có mặt trong quán trà hôm đó không một
ai hiểu đúng về Hạ Du. Bọn họ cho Hạ Du là điên, là giặc.
- Vào một buổi sáng của ngày Thanh minh năm sau,
mẹ Hạ Du và bà Hoa Thuyên cùng đến nghĩa địa ( dành cho người nghèo, người tù
và người bị chém) viếng mộ con. Hai người mẹ đau khổ bước đầu có sự đồng cảm . Họ
rất ngạc nhiên khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa. Mẹ Hạ Du đã bắt
đầu hiểu ra việc làm của con bà và tin tưởng những kẻ giết hại Hạ Du nhất định
sẽ bị quả báo.
b. Cách cho điểm:
- Điểm 2: Đáp ứng các yêu cầu trên, có thể mắc một
vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 1: Trình bày được một nửa các yêu cầu trên,
còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 0: Hoàn toàn sai lạc.
Câu II. (3,0 điểm)
a. Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội; kết cấu
bài văn chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ
pháp.
b.Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể đưa ra những ý kiến riêng, quan
trọng là cách hiểu và cách bàn luận phải xuất phát từ hiện tượng đề bài yêu cầu
nghị luận, phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Cần tổ chức bài làm
theo định hướng sau:
- Thực trạng trẻ em lang thang cơ nhỡ:
Trẻ em lang thang, cơ nhỡ đang là vấn đề cần được toàn xã hội quan tâm. Bởi vì
hiện nay vẫn còn rất nhiều trẻ em không nơi nương tựa, điều này ảnh hưởng tới
sự phát triển chung của đất nước.
- Nguyên nhân: Do đói nghèo, do tổn
thương tình cảm ( bị gia đình ruồng bỏ, từ chối hoặc đánh đập ), do mồ côi hoặc các trường hợp bố mẹ li hôn.
- Hiện nay, những " mái ấm tình
thương" đang xuất hiện ngày càng nhiều ở nước ta. Điều này không chỉ có ý
nghĩa xã hội, ý nghĩa kinh tế mà quan trọng hơn là giúp cho các em hướng thiện,
đưa các em đi đúng với quỹ đạo phát triển tích cực của xã hội. Đây là tình cảm
tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách... biểu hiện của truyền thống nhân đạo
ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam.
- Giới thiệu một vài điển hình: Tổ chức (
Làng trẻ em SOS, Làng trẻ em Hòa Bình ( Từ Dũ), Chùa Bồ Đề (Huế)...); cá nhân (
Mẹ Phạm Ngọc Oanh (Hà Nội) với 800 đứa con tình thương; Anh Phạm Việt Tuấn với
mái ấm KOTO ( Hà Nội )...)
- Quan điểm và biện pháp nhân rộng
+ Quan điểm: Có cái nhìn đúng đắn về hiện tượng
trẻ em lang thang cơ nhỡ từ đó nâng cao tình cảm và trách nhiệm đối với hiện
tượng ấy. Lên án và kịp thời phát hiện, tố cáo những kẻ bóc lột sức lao động và
xâm hại trẻ em.
+ Biện pháp nhân rộng: Dùng biện pháp tuyên truyền, kêu gọi các cá
nhân, tổ chức, quyên góp tiền cho các hoạt động từ thiện, thành
lập đội thanh niên tình nguyện...
c. Cách cho điểm:
- Điểm 3: Đáp ứng các
yêu cầu trên, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 2: Trình bày
được một nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 1: Nội dung sơ
sài, diễn đạt yếu.
- Điểm 0: Hoàn toàn
lạc đề.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)
Câu III.a. Theo chương trình
chuẩn (5,0 điểm)
a. Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, vận dụng
khả năng đọc- hiểu để trình bày cảm nhận
về nhân vật trong tác phẩm kí. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc
lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kíên thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về Hoàng Phủ Ngọc Tường
và tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông,
thí sinh biết cảm nhận được vốn tri thức, vốn văn hoá và tình cảm với Huế của
nhân vật tôi. Bài viết có thể trình
bày theo nhiều cách khác nhau song cần nêu bật những ý chính sau:
Nhân vật tôi trong tác phẩm là một trí thức gắn bó
và say đắm sông Hương với kinh thành Huế. Nhân vật đã huy động vốn kiến thức
tổng hợp về địa lí, lịch sử, văn hoá,...trong và ngoài nước để miêu tả và cảm
nhận những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông.
- Nhân vật tôi nhìn dòng sông từ nhiều điểm nhìn
khác nhau: thượng nguồn, trong kinh thành Huế, ra ngoại vi thành phố; từ góc độ
địa lí, văn hoá, lịch sử,...kết hợp đan xen điểm nhìn không gian và thời
gian...
- Giọng điệu của nhân vật là giọng thủ thỉ, tâm
tình, say đắm mà tỉnh táo, tự tin mà không áp đặt, sắc sảo mà giàu cảm xúc.
c. Cách cho điểm:
- Điểm 5: Đáp ứng
được yêu cầu trên, có thể mắc vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 3: Trình bày
được một nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 1: Bài viết
quá sơ sài, diễn đạt yếu.
- Điểm 0: Hoàn toàn
lạc đề.
Câu III.b. Theo chương trình
Nâng cao (5,0 điểm)
a. Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài nghị luận văn học, vận dụng khả
năng đọc - hiểu để phân tích tác phẩm trữ tình; kết cấu bài văn chặt chẽ, diễn
đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở hiểu biết về Thanh Thảo và
bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca, thí
sinh biết phân tích những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu để làm nổi bật vẻ đẹp bi
tráng của hình tượng Lor-ca. Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng
cần nêu được những ý cơ bản sau:
- Hình ảnh người nghệ sĩ Lor-ca: con người tự do, nghệ sĩ cách tân trong khung cảnh chính trị, văn hoá nghệ
thuật Tây Ban
Nha.
+ Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên hình
tượng một nhà nghệ sĩ Lor-ca bằng những nét chấm phá, phần nào chịu ảnh hưởng
của trường phái ấn tượng.
+ Chi tiết “tiếng đàn bọt nước”: nghệ thuật chuyển
đổi cảm giác: thính giác sang thị giác và thủ pháp lạ hóa tạo nên sức hấp dẫn
kỳ lạ của tiếng đàn Lor-ca.
+ Hình ảnh
tương phản gay gắt: gợi cảnh đấu trường
giữa khát vọng dân chủ với nền chính trị độc tài, giữa khát vọng cách tân nghệ
thuật với nền nghệ thuật già nua.
+“Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” . Đây là hình ảnh vừa thực vừa tượng trưng: đấu
trường quyết liệt, nơi người nghệ sĩ đương đầu với những thế lực tàn bạo, hà
khắc.
+ Nhạc
thơ li-a li-a ... Nghệ thuật láy âm “li-la li-la li-la” gợi hợp âm của tiếng đàn ghi ta, gợi hình ảnh
bông hoa buồn của phút chia ly, gợi chuyến đi thăm thẳm và đơn độc của người
nghệ sĩ.
+ Từ ngữ “lang
thang, miền đơn độc, yên ngựa mỏi mòn, vầng trăng chuếnh choáng” gợi lên cuộc hành trình đơn độc của người nghệ sĩ đang
tranh đấu cho tự do và cái mới.
- Cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca, khát vọng cách tân
nghệ thuật đành dang dở.
+ Tập
trung thể hiện giây phút Lor-ca "bị điệu về bãi bắn" và cực tả nỗi
đau đớn, xót xa trước cái chết của người nghệ sĩ. Thủ pháp đối lập, các biện
pháp so sánh, nhân hóa, điệp ngữ được sử dụng triệt để nhằm khắc họa đậm nét ấn
tượng về sự "kinh hoàng", nỗi đau đớn tột cùng của nhà thơ.
·
chi tiết “Tây Ban Nha/ hát
nghêu ngao”,
·
từ ngữ “kinh hoàng”, hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ”,
·
hình ảnh “Lor-ca bị điệu về bãi bắn/ chàng đi như
người mộng du”
Thật bất ngờ, hồi tưởng lại
cảnh tượng thảm khốc ấy, Thanh Thảo lại như nghe và cảm nhận thấy âm thanh
tiếng ghi ta trên chặng đường lãng du của Lor-ca.
+ Từ
ngữ chuyển đổi cảm giác “nâu, lá xanh,
tròn bọt nước vỡ tan, ròng ròng /máu chảy”
+ Những điệp khúc tạo hình âm nhạc bằng chính nhịp điệu, và bằng hình ảnh (bọt nước, tròn bọt nước vỡ tan, ròng ròng,
máu chảy) bằng màu sắc (nâu, xanh
biết mấy), bằng liên tưởng (Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt, bầu trời cô gái
ấy….). Sự kết hợp ngẫu hứng từ ngữ cũng là sự kết hợp mang tính chất âm nhạc.
Đặc biệt, khi tiếng ghita ròng ròng máu chảy, âm nhạc đã thành thân phận: nó là
tiếng van vỉ than khóc của trái tim tử thương trong thơ Lor-ca, nó là chính
định mệnh nghiệt ngã với Lorca.
- Đánh giá: Với nghệ thuật đặc sắc, đoạn thơ thể hiện sự đồng cảm, tiếc
thương sâu sắc của tác giả đối với Lor-ca, người nghệ sĩ tài hoa có số phận bi
tráng của đất nước Tây Ban Nha.
c) Cách cho điểm:
-Điểm 5: Đáp ứng được yêu cầu trên, có
thể mắc vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
-Điểm 3: Trình bày được một nửa các
yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
-Điểm 1: Phân tích quá sơ sài, diễn
đạt yếu.
-Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét