Bài đăng phổ biến

Thứ Sáu, 23 tháng 3, 2012

tài liệu ôn thi tốt nghiệp môn ngữ văn


A. VĂN HỌC SỬ:
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8-1945 ĐẾN HẾT THẾ KỈ XX

I – Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975:
1-Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá :
- Đường lối văn nghệ của Đảng góp phần tạo nên một nền văn học thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, về tổ chức và quan niệm nhà văn kiểu mới.
- Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ kéo dài suốt 30 năm.
- Nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn và chậm phát triển. Giao lưu văn hoá chủ yếu giới hạn trong các nước XHCN.
2- Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu:
a) Chặng đường từ 1945 đến 1954:
- Một số tác phẩm trong hai năm 1945-1946 phản ánh được không khí hồ hởi, vui sướng đặc biệt của nhân dân ta khi đất nước giành được độc lập.
- Từ cuối 1946 đến 1954 văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
 + Truyện ngắn và kí sớm đạt  được thành tựu: Một lần tới Thủ đô, Trận phố Ràng (Trần Đăng), Đôi mắt, Ở rừng (Nam Cao); Làng (Kim Lân); Thư nhà (Hồ Phương),…
-Từ năm 1950, xuất hiện những tập truyện, kí khá dày dặn: Vùng mỏ (Võ Huy Tâm); Xung kích (Nguyễn Đình Thi); Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc),…
+ Thơ ca đạt nhiều thành tựu xuất sắc: Cảnh khuya, Cảnh rừng Việt Bắc, Rằm tháng giêng,..( Hồ Chí Minh), Bên kia sông Đuống ( Hoàng Cầm), Tây Tiến (Quang Dũng),..Đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
+ Một số vở kịch ra đời phản ánh kịp thời hiện thực cách mạng và kháng chiến.
b) Chặng đường  từ 1955 đến 1964:
- Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát khá nhiều vấn đề, nhiều phạm vi của hiện thực đời sống:
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp
+ Hiện thực đời sống trước CM 
+ Công cuộc xây dựng CNXH
- Thơ ca phát triển mạnh mẽ, nhiều tập thơ xuất sắc ra đời
- Kịch nói có bước phát triển mới
c) Chặng đường từ 1965 đến 1975:
- Chủ đề bao trùm của văn học là đề cao tinh thần yêu nước, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
- Văn xuôi : phản ánh cuộc sống chiến đấu và lao động, khắc hoạ thành công hình ảnh con người Việt Nam anh dũng, kiên cường và bất khuất :
- Thơ đạt được bước tiến mới trong mở rộng, đào sâu chất liệu hiện thực đồng thời tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng và chính luận. Đặc biệt là sự xuất hiện đông đảo và những đóng góp đặc sắc của thế hệ các nhà thơ trẻ.
- Kịch nói có những thành tựu mới, gây được tiếng vang
d) Văn học vùng địch tạm chiếm (1946-1975): Xu hướng văn học tiến bộ, yêu nước và cách mạng có những đóng góp đáng ghi nhận trên cả hai bình diện chính trị-xã hội và văn học.
3 - Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1975:
a) Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Văn học Việt Nam 1945-1975 như một tấm gương phản chiếu những vấn đề lớn lao, trọng đại nhất của đất nước và cách mạng: đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng CNXH.
b) Nền văn học hướng về đại chúng.
- Nhận thức mới về  quần chúng nhân dân.
- Hướng về đại chúng, TP văn học thường ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề rõ ràng, sử dụng những hình thức nghệ thuật quen thuộc với nhân dân, ngôn ngữ bình dị, trong sáng, dễ hiểu.
c) Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
+ Khuynh hướng sử thi thể hiện:
* Đề tài : những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân tộc
* Nhân vật chính : những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của dân tộc; gắn bó số phận cá nhân với số phận đất nước; luôn đặt bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ý thức chính trị, tình cảm lớn, lẽ sống lớn lên hàng đầu
* Lời văn : ngợi ca, trang trọng và lấp lánh vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng.
+ Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng khẳng định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng tới lí tưởng (ở thời kì này là ngợi ca cuộc sống mới, con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng CM và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
+ Khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn làm cho văn học thấm nhuần tinh thần lạc quan, đồng thời đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển cách mạng.
II – Vài nét khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1975 đến hết thế kỉ XX:
1 - Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá :
- Với chiến thắng năm 1975, lịch sử dân tôc ta mở ra một thời kì mới - thời kì độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Tuy nhiên từ 1975 đến 1985 đất nước ta lại gặp phải những khó khăn và thử thách mới.
- Từ năm 1986, Đảng ta đề xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện. Tiếp xúc và giao lưu văn hoá được mở rộng. Sự nghiệp đổi mới thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi mới để phù hợp với nguyện vọng của nhà văn và người đọc cũng như quy luật phát triển khách quan của văn học.
2 - Những chuyển biến  và một  số thành tựu ban đầu:
- Từ sau 1975 :
+ Thơ không tạo được sự lôi cuốn , hấp dẫn như các giai đoạn trước nhưng vẫn có những tác phẩm được bạn đọc chú ý.
+ Văn xuôi có nhiều khởi sắc, bộc lộ ý thức đổi mới cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời sống.
 - Từ năm 1986 : văn học chính thức bước vào chặng đường đổi mới, gắn bó, cập nhật hơn đối với những vấn đề của đời sống hằng ngày. Nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn
- Từ sau năm 1975, kịch nói phát triển mạnh mẽ. Các vở Hồn Trương Ba da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) và Mùa hè ở biển (Xuân Trình),…tạo được sự chú ý
 *  Một số phương diện đổi mới trong văn học:
- Văn học đổi mới vận động theo khuynh hướng dân chủ hoá, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc.
-Văn học phát triển đa dạng hơn về đề tài, chủ đề; phong phú và mới mẻ hơn về thủ pháp nghệ thuật
- Đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mơi cách nhìn nhận, cách tiếp cân con người và hiện thực đời sống, đã khám phá con người trong những mối quan hệ đa dạng và phức tạp, thể hiện con người ở nhiều phương diện của đời sống, kẻ cả đời sống tâm linh.
    Nhìn tổng thể cái mới của văn học giai đoạn này là tính chất hướng nội, quan tâm nhiều hơn tơi số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường.
    Bên cạnh những thành tựu, quá trình đổi mới văn học cũng xuất hiện những khuynh hướng tiêu cực, những biểu hiện quá đà, thiếu lành mạnh
III - Kết luận:
- Văn học VIỆT NAM từ 1945 đến 1975 đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ những truyền thống tư tưởng lớn của văn học dân tộc, và đạt được nhiều thành tựu nghê thuật ở nhiều thể loại, tiêu biểu nhất là thơ và truyện ngắn.
- Từ năm 1986, văn học đổi mới mạnh mẽ phù hợp với nguyện vọng của nhà văn và người đọc, phù hợp với quy luật khách quan của văn học và gặt hái được những thành tựu bước đầu.

B. TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH THỂ LOẠI VĂN CHÍNH LUẬN:

1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

                                                                          (Hồ Chí Minh)
PHẦN 1 : TÁC GIẢ
I.Vài nét về tiểu sử:(SGK)
II. Sự nghiệp văn học :
1. Quan điểm sáng tác:
- Xem văn nghệ là hoạt động tinh thần phong phú phục vụ hiệu quả cho hoạt động CM. Nhà văn cũng phải có tinh thần xung phong như những người chiến sĩ ngoài mặt trận. Æ Tính chiến đấu của văn học
- Văn chương phải có tính chân thật, hình thức nghệ thuật của tác phẩm phải có sự chọn lọc, sáng tạo, ngôn ngữ trong sáng tránh lối viết xa lạ, cầu kì, phát huy cốt cách dân tộc, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Æ Tính chân thật và tính dân tộc của văn học:
- Nội dung và hình thức tác phẩm phải xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận : “Viết cho ai?”(đối tượng), “Viết để làm gì?” (mục đích), “Viết cái gì?” (nội dung), “Viết như thế nào?” (hình thc). Æ Tính mục đích của văn chương
2. Di sản văn học.
a. Văn chính luận.
- Mục đích : đấu tranh chính trị, tiến công trực diện kẻ thù, giác ngộ quần chúng, thể hiện nhiệm vụ cách mạng qua từng chặng đường lịch sử.
- Nghệ thuật : là những áng văn chính lận mẫu mực, thể hiện lí trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo, tấm lòng yêu ghét nồng nàn, sâu sắc, tầm hiểu biết sâu rộng về văn hóa, về thực tiễn cuộc sống.
- Tác phẩm tiêu biểu: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến…
b. Truyện và kí:
- Viết từ những năm 20 của thế kỉ XX (1920-1925)
- Nội dung : tố cáo, châm biếm, đả kích thực dân và  phong kiến ở các nước thuộc địa, bộc lộ lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự hào về truyền thống bất khuất của dân tộc.
- Nghệ thuật : cô đọng, cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo, ý tưởng thâm thúy, lạc quan, phong cách hiện đại, thể hiện vẻ đẹp trí tuệ sắc sảo với trí tưởng tượng phong phú, vốn văn hoá sâu rộng và tính thực tiễn.
- Tác phẩm tiêu biểu : Con người biết mùi hun khói, Vi hành, Những trò lố hay là Va – ren và Phan Bội Châu(1925), Nhật kí chìm tàu (1931), Vừa đi đường vừa kể truyện (1963)…
c. Thơ ca: phong phú, nhiều thể loại
- Nhật kí trong tù.
+ Tác phẩm ghi lại một cách chân thực chế độ nhà tù Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch Æ giá trị  phê phán.
+ Phản ánh bức chân dung tự họa của Hồ Chí Minh : nghị lực phi thường, tâm hồn khát khao tự do, hướng về Tổ quốc, nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên, trái tim mênh mông với mọi kiếp người.
            + Nghệ thuật : sâu sắc về tư tưởng, đa dạng và linh hoạt về bút pháp nghệ thuật, kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật thơ ca Hồ Chí Minh.
- Ngoài NKTT, còn phải kể đến một số chùm thơ người làm ở Việt Bắc trong những năm kháng chiến.  Thơ HCM (86 bài – Tiếng Việt),  Thơ chữ Hán (36 bài ) Æ phong thái ung dung, hoà hợp với thiên nhiên, thể hiện bản lĩnh của người cách mạng.
3. Phong cách nghệ thuật: Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh độc đáo mà đa dạng.
- Văn chính luận: Ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp, giàu hình ảnh, giọng điệu đa dang.
- Tryện và kí: Thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén. Tiếng cười trào phúng nhẹ nhàng mà thâm thuý sâu cay. Thể hiện chất trí tuệ sắc sảo và hiện đại.
- Thơ ca: Phong cách hết sức đa dạng, hàm súc, uyên thâm, đạt chuẩn mực về nghệ thuật, sử dụng thành công nhiều thể loại thơ . Có loại thơ tuyên truyền cổ động lời lẽ mộc mạc giản dị, có loại thơ hàm súc uyên thâm kết hợp giữa màu sắc cổ điện và bút pháp hiện đại.
PHẦN 2 : TÁC PHẨM
I. Giới thiệu :
1. Hoàn cảnh sáng tác : Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Phát xít Nhật, kẻ đang chiếm đóng nước ta lúc bấy giờ, đã đầu hàng Đồng minh. Trên toàn quốc, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền. Ngày 26-08-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam mới.
2. Đối tượng và mục đích của TNĐL.
* Đối tượng.
- Đồng bào cả nước và nhân dân thế giới.
- Đế quốc Anh, Pháp, Mĩ.
* Mục đích.
- Tuyên bố và khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc VN,
- Bác bỏ luận điệu của bọn xâm lược trước dư luận thế giới, đồng thời khẳng định ý` chí bảo vệ độc lập dân tộc.
3 Bố cục:
+ Đoạn 1: (từ đầu đến không ai có thể chối cãi được): Nêu nguyên lí chung của Tuyên ngôn độc lập.
+ Đoạn 2: (Từ “Thế mà” đến “phải được độc lập”): Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh và nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước VNDCCH.
+ Đoạn 3 (Còn lại) : Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.
II - Nội dung đọc hiểu :
1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn :
- Trích dẫn  2 bản tuyên ngôn của Mĩ ( 1776) và Pháp (1791) : khẳng định Nhân quyền và Dân quyền của con người.
Æ Đề cao giá trị tư tưởng nhân đạo, tiến bộ của nhân dân Mĩ và Pháp, cũng là của văn minh nhân loại.
Æ Làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn.
-  Từ quyền bình đẳng và tự do của con người, tác giả suy rộng ra: “Tất cả dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng”  → Khẳng định quyền độc lập dân tộc của VN.
Æ mở đầu sâu sắc, hùng hồn nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp; ngăn chặn âm mưu can thiệp của đế quốc Mĩ và nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên.
2/ Cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn :
  a / Vạch trần bộ mặt tàn bạo , xảo quyệt của Pháp :
- Lợi dụng lá cờ “bình đẳng , bác ái ” để cướp nước ta, bóc lột ta về mọi mặt : chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, ngoại giao.
→ Giọng văn vừa hùng hồn , đanh thép , dẫn chứng cụ thể, liên tiếp tố cáo tội ác của Pháp.
   b/ Thông điệp mà bản Tuyên ngôn độc lập hướng tới :
- Tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết mọi hiệp ước, đặc quyền của thực dân Pháp về VN.
- Kêu gọi toàn dân VN đoàn kết chống lại âm mưu xâm lược của thực dân Pháp.
- Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập tự do của VN.
3. Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc
- Tuyên bố nhân dân VN quyết tâm giữ vững nền độc lập của dân tộc.
- Khẳng định VN có quyền và đủ tư cách hưởng độc lập , tự do.
Æ Áng văn chính luận mẫu mực: lập luận chặt chẽ, luận điểm xác đáng, giàu sức thuyết phục, ngôn từ trong sáng, hùng hồn, đanh thép.

2. NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU NGÔI SAO SÁNG
     TRONG VĂN NGHỆ CỦA DÂN TỘC
(Phạm Văn Đồng)

I.Tìm hiểu chung
1. Tác giả :
-  Phạm Văn Đồng (1906-2000), quê quán ở Quảng Ngãi, là nhà cách mạng, nhà chính trị, nhà ngoại giao lỗi lạc của cách mạng VN thế kỉ XX.
- Phạm Văn Đồng còn là nhà giáo dục, nhà lí luận văn hoá văn nghệ lớn.
2. Văn bản
a) Hoàn cảnh, mục đích sáng tác
- Sáng tác tháng 07/1963 nhân kỉ niệm 75 năm ngày mất  Nguyễn Đình Chiểu.
- Để tưởng nhớ Nguyễn Đình Chiểu; định hướng, điều chỉnh cách nhìn nhận, đánh giá về Nguyễn Đình Chiểu và thơ văn của ông; khơi dậy tinh thần yêu nước trong thời đại chống Mĩ cứu nước.
b) Thể loại:
 - Văn bản nghị luận về một vấn đề văn học....
                 - Yêu cầu thể loại: Bố cục rõ ràng, mạch lạc;  Tính lí trí cao, lập luận chặt chẽ, khoa học, lôgic.; Lí lẽ sắc bén, dẫn chứng xác thực có sức thuyết phục; Có thể sử dụng yếu tố biểu cảm.
c)Bố cục
* Bố cục
- Nêu vấn đề: Từ đầu đến “đặt chân lên đất nước ta”: Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn của dân tộc cần phải được nghiên cứu, tìm hiểu và đề cao hơn nữa.
- Giải quyết vấn đề: Tiếp theo đến “còn vì văn hay của Lục Vân Tiên
+ Luận điểm 1:  Nguyễn Đình Chiểu  - nhà thơ yêu nước
+ Luận điểm 2:  Thơ văn yêu nước của  Nguyễn Đình Chiểu - tấm gương phản chiếu phong trào chống Pháp oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ.
+ Luận điểm 3: Lục Vân Tiên, tác phẩm lớn nhất của  Nguyễn Đình Chiểu, có ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian, nhất là ở miền Nam
- Kết thúc vấn đề: Còn lại: Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn  Nguyễn Đình Chiểu - tấm gương sáng của mọi thời đại.
* Nhận xét kết cấu của văn bản
- Không kết cấu theo trình tự thời gian
- Lí giải: do mục đích sáng tác.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Nêu vấn đề
- Đánh giá so sánh Nguyễn Đình Chiểu là:
+ Ngôi sao có ánh sáng khác thường: ánh sáng đẹp nhưng chưa quen nhìn nên khó thấy
+ Phải chăm chú nhìn mới thấy và càng nhìn càng thấy sáng: phải dày công nghiên cứu thì mới thấy.
Luận đề:  Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ yêu nước mà các tác phẩm của ông là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta, một tác giả cần được nghiên cứu đề cao hơn nữa.
ÆTác giả đã vào đề một cách trực tiếp, thẳng thắn, độc đáo: nêu vấn đề một cách trực tiếp và lí giải nguyên nhân với cách so sánh cụ thể, giàu tính hình tượng. Đó  cũng là cách đặt vấn đề khoa học, sâu sắc vừa khẳng định được vị trí của  Nguyễn Đình Chiểu  vừa định hướng tìm hiểu thơ văn  Nguyễn Đình Chiểu .
2. Giải quyết vấn đề:
a. Luận điểm 1: Cuộc đời, con người và quan niệm sáng tác  thơ văn của  Nguyễn Đình Chiểu.
- Hoàn cảnh sống: nước mất nhà tan, mang thân phận đặc biệt: mù cả hai mắt.
- Con người: nhà nho yêu nước, vì mù mắt nên hoạt động chủ yếu bằng thơ văn; nêu cao tấm gương anh dũng, khí tiết,  sáng chói về tinh thần yêu nước và căm thù giặc sâu sắc.
- Quan niệm sáng tác: dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu, ca ngợi đạo đức, chính nghĩa.
Æ Quan niệm văn chương của  Nguyễn Đình Chiểu  hoàn toàn thống nhất với quan niệm về lẽ làm người.
b. Luận điểm 2: Thơ văn yêu nước của  Nguyễn Đình Chiểu.
- Tái hiện một thời đau thương, khổ nhục mà vĩ đại của đất nước, nhân dân. Æ thơ văn NĐC đã bám sát đời sống lịch sử đấu tranh của nhân dân Nam Bộ, có hơi thở nóng bỏng của tình cảm yêu nước thuơng nòi. Đó cũng là cách khẳng định NĐC xứng đáng là một ngôi sao sáng .
- Thơ văn yêu nước của  Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung với nước, than khóc cho những người đã trọn nghĩa với dân.
Luận chứng: VTNSCG là một đóng góp lớn
+ Khúc ca của người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang
+ Lần đầu tiên, người nông dân di vào văn học viết, là hình tượng nghệ thuật trung tâm.
- Thơ văn yêu nước của  Nguyễn Đình Chiểu không chỉ có sức nặng đấu tranh mà còn đẹp ở hình thức, có những đóa hoa, hòn ngọc rất đẹp...
 ÆVăn chương NĐC tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của thời đại, có sức cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc chiến đấu chống thực dân.
c) Luận điểm 3 :Truyện Lục Vân Tiên.
- Là “một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa.
- Không phủ nhận những hạn chế của tác phẩm: giá trị luận lí mà NĐC ca ngợi, ở thời đại chúng ta, theo quan điểm chúng ta thì có phần đã lỗi thời”, hay văn chương của LVT “có những chỗ lời văn không hay lắm”.
- Khẳng định tư tưởng, thế giới nhân vật, về nghệ thuật trong truyện LVT có những điểm mạnh và giá trị riêng: tư tưởng nhân-nghĩa-trí-dũng; nhân vật gần gũi với nhân dân, từ nhân dân mà ra: dũng cảm, đấu tranh không khoan nhượng cho chính nghĩa; nghệ thuật kể truyện nôm dễ hiểu dễ nhớ, dễ truyền bá dân gian, thậm chí có cả những lời thơ hay.
Æ cách lập luận đòn bẩy, bắt đầu lập luận là một sự hạ xuống, nhưng đó là sự hạ xuống để nâng lên; xem xét LVT trong mối quan hệ mật thiết với đời sống của nhân dân.
3. Kết thúc vấn đề:
- Khẳng định vị trí của NĐC trong lịch sử VH, trong đời sống tâm hồn dân tộc và trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
- Tỏ niềm tiếc thương thành kính.
Vừa có tác dụng khắc sâu, vừa có thể đi vào lòng người niềm xúc cảm thiết tha.
III. Kết luận:
1. Nghệ thuật :
- Kết hợp hài hòa giữa lí lẽ xác đáng và tình cảm chân thành; lập luận chặt chẽ, khoa học, luận cứ và luận chứng xác đáng. Bố cục mạch lạc, ngôn ngữ trong sáng, rõ ràng.
2. Nội dung
- Đánh giá đúng đắn và khoa học về tác gia văn học Nguyễn Đình Chiểu trong văn học yêu nước của dân tộc.
- Bày tỏ được thái độ trân trọng và cảm phục của tác giả đối với tâm gương sáng nhà văn –chiến sĩ Nguyễn Đình Chiểu.
- Khơi dậy sức mạnh của văn nghệ và tinh thần yêu nước và đấu tranh chống đế quốc, bảo vệ độc lập dân tộc

3. THÔNG ĐIỆP NHÂN NGÀY THẾ GIỚI
PHÒNG CHỐNG AIDS 1-12-2003
                                                                                                             ( Cô-phi-An-nan)
I. Giới thiệu
1. Tác giả
- Cô-phi-An-nan (1938) tại Gana ( Châu Phi), bắt đầu làm việc tại tổ chức Liên hợp quốc từ năm 1962, 1996 là phó tổng thư kí Liên hợp quốc, 1/1997-1/2007 ông trở thành người thứ bảy và là người Châu Phi da đen đầu tiên giữ chức vụ tổng thư kí Liên hợp quốc.
            - Năm 2001 tổ chức Liên hợp quốc và cá nhân Cô-phi-An-nan được trao giải Nôben Hoà bình. Ông cũng được trao nhiều giải thưởng danh dự khác ở châu Âu, Á, Phi…
2. Hoàn cảnh sáng tác
            - Năm 2001 Cô-phi-An-nan ra lời kêu gọi thế giới đấu tranh phòng chống HIV, kêu gọi thành lập quỹ sức khoẻ và AIDS toàn cầu.
            - Thông điệp này được Cô-phi-An-nan viết gửi nhân dân thế giới nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1/12/2003.
II. Tìm hiểu văn bản
1. Tình hình phòng chống HIV trên thế giới.
     a. Những vấn đề đã đạt được.
            - Ngân sách phòng chống HIV tăng.
            - Quỹ toàn cầu phòng chống lao, sốt rét được thông qua.
            - Các nước đã xây dựng kế hoạch phòng chống HIV.
            - Các công ty đã áp dụng chính sách phòng chống HIV nơi làm việc, nhiều nhóm từ thiện và cộng đồng phối hợp với chính phủ và tổ chức khác phòng chống HIV.
     b.Những vấn đề chưa đạt được.
         - HIV vẫn gây tỉ lệ tử vong cao, ít có dấu hiệu suy giảm (1 phút có 10 người bị nhiễm HIV, HIV đang lây lan ở mức báo động đối với phụ nữ, phụ nữ đã chiếm một nửa số người bị nhiễm, bệnh dịch này lan rộng ở những nơi trước đây được coi là an toàn: châu Á, Đông Âu, Uran đến Thái Bình Dương), điều này dẫn đến dân số có nguy cơ giảm, ảnh hưởng đến lực lượng lao động toàn cầu.
         - Chúng ta chưa đạt được chỉ tiêu đề ra trong năm 2005: chưa giảm được số thanh niên, trẻ sơ sinh nhiễm HIV, chưa triển khai chương trình chăm sóc toàn diện trên thế giới.
2. Các biện pháp cần thực hiện để đẩy lùi HIV.
         - Cần có nguồn lực và hành động cần thiết “ chúng ta cần phải nổ lực nhiều hơn nữa để thực hiện cam kết của mình bằng những nguồn lực và hành động cần thiết”.
        - Đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu và sẵn sàng đối mặt với nó “chúng ta phải đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế của mình. Đó là lí do chúng ta phải công khai lên tiếng về AIDS”.
        - Không có thái độ kì thị, phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIV “ chúng ta sẽ không hoàn thành các mục tiêu đề ra thậm chí chúng ta còn bị chậm hơn nữa nếu sự kì thị và phân biệt đối xử vẫn tiếp tục diễn ra đối với những người bị HIV/AIDS. Hãy đừng để một ai có ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên các bức rào ngăn cách giữa “ chúng ta” và “họ”.
        - Mọi người cùng chung tay để chống lại căn bệnh của thế kỉ “Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn”.
III. Tổng kết
   1. Nghệ thuật
        - Tác giả sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, thuyết phục:
         + Mở đầu nêu luận điểm xuất phát “ngày hôm nay chúng ta đã cam kết và các nguồn lực đã được tăng lên. Song những hành động của ta vẫn còn quá ít so với yêu cầu thực tế”.
         + Sau đó đi vào từng luậm điểm : luận điểm 1, tác giả nêu lên những gì thế giới đã làm được để phòng chống HIV thời gian qua, tác giả đưa ra những luận cứ, những dẫn chứng xác thực, dẫn chứng được đưa theo phương diện từ rộng đến hẹp ( ngân sách phòng chống HIV trên thế giới, quốc gia, công ty….). Luận điểm 2, tác giả nêu lên những gì thế giới chưa làm được trong phòng chống HIV, đưa ra những số liệu chính xác, thuyết phục ( trong năm qua mỗi phút đồng hồ …. Thái Bình Dương).
         + Sử dụng lập luận phản đề ( lẽ ra…lẽ ra…và lẽ ra…) làm cơ sở để đưa ra  kiến nghị của mình.
         + Để tăng tính thuyết phục bài viết sử dụng câu văn dài ngắn khác nhau, sử dụng nhiều câu khẳng định, mệnh lệnh ( chúng ta đã… chúng ta hãy….chúng ta không thể…hãy cùng tôi….) và cũng để tạo nên giọng điệu hùng hồn cho bài viết.
       - Câu văn chứa đựng nhiều yếu tố biểu cảm nhất là đoạn “Đó là lí do chúng ta phải công khai lên tiếng → hết”, nhờ yếu tố biểu cảm đó giúp bài văn không khô khan mà dễ thuyết phục và thúc giục mọi người hành động phòng chống HIV.
       - Ngôn ngữ hàm súc,chọn lọc, bài viết ngắn gọn, súc tích, cô đọng.
     2. Nội dung
       Trước hiểm hoạ của căn bệnh thế kỉ, HIV đang cướp đi sức khoẻ, sinh mạng của nhân loại, với vai trò là tổng thư kí Liên hợp quốc, Cô-phi-An-nan đã ra lời kêu gọi nhân dân thế giới hãy chung tay đẩy lùi đại dịch này. Đó không chỉ là nhiệm vụ của một cá nhân, một tổ chức nào mà là nhiệm vụ chung của tất cả chúng ta.
 
C. MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH THỂ LOẠI THƠ:
1. TÂY TIẾN
(Quang Dũng)

I. Vài nét chung về tác giả và bài thơ:
1. Tác giả: (Xem sgk-trang 87)
2. Hoàn cảnh ra đời:
- Tây Tiến là đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo về biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam.
            - Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền tây Thanh Hoá và cả Sầm Nưa (Lào).
            - Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên (như Quang Dũng), chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và dũng cảm. Quang Dũng từng là đại đội trưởng.Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52.
- Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị chẳng bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến.
II. Nội dung đọc hiểu:
1. Bố cục:
- Theo văn bản, bài thơ chia làm 4 đoạn. Ý chính của mỗi đoạn:
+ Đoạn 1: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.
+ Đoạn 2:Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
+ Đoạn 3:Chân dung của người lính Tây Tiến.
+ Đoạn 4:Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
- Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viét trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kỉ niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho hồi ức ấy trở nên sống động và người đọc có cảm tưỏng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.
2. Đoạn thơ: (Sông Mã........thơm nếp xôi)
- Ở đoạn thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên miền Tây lần lượt hiện ra qua những khung cảnh của địa bàn hoạt động, những chặng đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến cũng thấp thoáng hiện lên trên nền cảnh thiên nhiên ấy.
- Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (“thi trung hữu hoạ”). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây- địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ ngữ giàu giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trong mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thơ thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biên khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hương đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu thơ toàn thanh bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng những gam màu lạnh làm dịu lại cả khổ thơ.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiếnlàm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa,- Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó gợi nhớ tới câu thơ trong bài Đường Thục khó (Thục đạo nan) của Lí Bạch: “Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan vu thướng thanh thiên).
Vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở chiều thời gian, luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người:
Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiên lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưi rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,...Những tên đất lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch , những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn, được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vừa đa dạng vừa độc đáo của núi rừng miền Tây Tổ quốc.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên.Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai.
3. Đoạn thơ: “Doanh trại....hoa đong đưa”: Qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, thiên nhiên và con người miền Tây hiện ra với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình.
- Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu đến đoạn này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Sự tinh tế, tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh âýy, người ấy hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất thơ mộng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Cả doanh trại bừng sáng, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy (“xiêm áo tự bao giờ”), vừa e thẹn, vừa tình tứ (“nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.
- Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mông, mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên trên dòng nước lũ.
Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió (“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Ông không chỉ lầm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.
Đọc đoạn thơ này, ta nhưlạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên từ tâm hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.
4. Đoạn thơ: “Tây Tiến.......khúc độc hành”:
            - Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (đoạn 1) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ (ở đoạn 2), đến đoạn thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện với vẻ đẹp đậm chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu hoà quyện, xâm nhập vào nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng- thần thái chung của bức tượng đài.
- Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bênh ấy: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,- Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt mồ hôi rơi,- Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao của người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đạm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh li kì, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ, mà chứa đựng một sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vâvx toát lên vẻ oai phong, dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (“mắt trừng gửi mộng”)  của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương (“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
- Ngòi bút của Quang Dũng, khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”). Hình tượng người lính Tây Tiến có vẻ tiều tuỵ, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm “áo bào” sang trọng. Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (“anh về đất”), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
5. Đoạn cuối:
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Cái tinh thần “một đi khôngt trở lại” (“nhất khứ bất phục hoàn”) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vâvnx gắn bó máu thịt với những ngày, những nơi mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến  như vậy.
III. Câu hỏi
Đề . Phân tích bốn câu thơ sau đây trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thư­ớc lên cao, ngàn thư­ớc xuống
Nhà ai Pha Luông mư­a xa khơi
a)Hai câu thơ đầu: Diễn tả đư­ợc sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc (chú ý các từ đầy giá trị tạo hình: khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời). Câu thứ nhất nghe như­ có hơi thở nặng nhọc của ng­ười lính. Cách dùng từ “ngửi trời” của câu thơ thứ hai táo bạo, đồng thời có chất tinh nghịch của ng­ười lính.
b)Hai câu thơ sau: Câu thứ ba như­ bẻ đôi, diễn tả dốc vút lên, đổ xuống gần nh­ư thẳng đứng. Đọc câu thứ tư­, có thể hình dung đoàn quân tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa thấy nhà ai thấp thoáng qua một không gian mịt mùng s­ương rừng mư­a núi.
Hai câu 3 và 4 phối hợp với nhau tạo ra một âm h­ưởng đặc biệt (câu thứ 4 toàn thanh bằng).
Có thể liên hệ đến âm hư­ởng của hai câu thơ của Tản Đà trong bài Thăm mả cũ bên đư­ờng: “Tài cao phận thấp chí khí uất - Giang hồ mê chơi quên quê h­ơng” (Tản Đà tả tình, còn Quang Dũng tả cảnh).
Đề 2. Phân tích hình t­ượng ng­ười lính Tây Tiến trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
a)  Đây là hình t­ượng tập thể của ngư­ời lính Tây Tiến. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu của từng ng­ười lính để tạc nên bức t­ượng đài tập thể mang tinh thần chung của cả đoàn quân.
b)Bốn câu thơ đầu nói về vẻ đẹp lãng mạn của ngư­ời lính Tây Tiến. Quang Dũng, khi viết về ng­ười lính Tây Tiến không hề che giấu những khó khăn gian khổ, chỉ có điều, những cái đó đều đ­ược nhìn bằng con mắt lãng mạn.
c)Bốn câu thơ sau nói tới vẻ đẹp bi tráng của ngư­ời lính Tây Tiến. Cái bi th­ương ở đây bị mờ đi tr­ước lí t­ởng quên mình của ng­ười lính (Chiến trư­ờng đi chẳng tiếc đời xanh). Cái sự thật bi thảm những ng­ười lính gục ngã bên đư­ờng không có đến cả manh chiếu để che thân đ­ược vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất) và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã. Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc hào hùng để tiễn đ­ưa linh hồn những ng­ười lính Tây Tiến:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.

2. VIỆT BẮC
Tố Hữu
PHẦN MỘT: TÁC GIẢ
I. Tiểu sử:
- Tố Hữu ( 1920- 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành
- Quê quán: xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
- Thời thơ ấu: Tố Hữu sinh ra trong một gia đình Nho học ở Huế - mảnh đất thơ mộng, trữ tình còn lưu giữ nhiều nét văn hoá dân gian.
-Thời thanh niên: Tố Hữu sớm giác ngộ cách mạng và hăng say hoạt động, kiên cường đấu tranh trong các nhà tù thực dân
-Thời kỳ sau CM tháng Tám: Tố Hữu đảm nhiệm những cương vị trọng yếu trên mặt trận văn hoá văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
II. Đường cách mạng, đường thơ: Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật nhữngchặng đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ.
1.Tập thơ Từ ấy ( 1937 – 1946): Tập thơ chia làm 3 phần:
+ Máu lửa (sáng tác trong thời kì Mặt trận Dân chủ). Nhà thơ cảm thông sâu sắc với cuộc sống cơ cực của những người nghèo khổ trong xã hội (lão đầy tớ, chị vú em, cô gái giang hồ, những em bé mồ côi,...) , đồng thời khơi dậy ở họ ý chí đấu tranh và niềm tin vào tương lai.
+ Xiềng xích (sáng tác trong các nhà lao lớn ở Trung Bộ và Tây Nguyên). Đó là tâm tư của một người trẻ tuổi tha thiết yêu đời và khao khát tự do, là ý chí kiên cường của người chiến sĩ quyết tâm tiếp tục cuộc chiến đấu ngay trong nhà tù.
+ Giải phóng: thể hiện niềm vui chiến thắng, ca ngợi c/m thành công với cảm hứng lãng mạn dâng trào.
2. Tập thơ Việt Bắc (1947 – 1954):
+ Phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc, thể hiện con người quần chúng kháng chiến.
            + Thể hiện những tình cảm lớn của con người VN mà bao trùm là lòng yêu nước.
3.Tập thơ Gió lộng (1955 – 1961): tình cảm bao trùm trong đời sống tinh thần của con người VN là
+ Niềm vui và niềm tự hào, tin tưởng ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới XHCN ở miền Bắc.
            + Thể hện tình cảm với miền Nam và ý chí thống nhất Tổ quốc.
            + Khẳng định tình cảm quốc tế vô sản.
4. Tập thơ Ra trận (1962 – 1971), Tập thơ “Máu và Hoa” (1972 – 1977): 
+ Phản ánh sinh động cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nd 2 miền Nam, Bắc; tự hào tin tưởng con đường c/m dưới sự lãnh đạo của Đảng; bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn đối với Bác.
            + Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng C/M, ca ngợi Tổ quốc – chân lí của thời đại, ghi lại những đau thương và chiến thắng hào hùng của dân tộc.
            Hai tập thơ mang đậm nét sử thi và cảm hứng lãng mạn.
5. Tập thơ : “ Một tiếng đờn” (1978 – 1992), tập thơ “Ta với Ta” (1993 – 1999) đây là những tập thơ thể hiện những suy ngẫm chiêm nghiệm của nhà thơ về cuộc sống và lẽ đời.
III. Phong cách thơ Tố Hữu:
1. Về nội dung: Thơ Tố Hữu mang phong cách trữ tình chính trị rất sâu sắc:
- Trong việc biểu hiện tâm hồn, thơ Tố Hữu hướng tới cái ta chung
- Trong việc thể hiện đời sống, thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi.
- Những điều đó được thể hiện qua giọng thơ mang tính chất tâm tình.
2. Về nghệ thuật: thơ Tố Hữu mang phong cách dân tộc rất đậm đà.
- Thể thơ: lục bát, thất ngôn.
- Ngôn ngữ thơ: dùng từ ngữ và cách nói dân gian, phát huy tính nhạc phong phú trong tiếng Việt.


2. VIỆT BẮC - Tố Hữu

I. Hoàn cảnh sáng tác :
           - Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở đùm bọc cho Đảng, Chính Phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ.
          - Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết, hòa bình trở lại, miền Bắc nước ta được giải phóng.
            - Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội.
           - Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Nhân sự kiện trọng đại này, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc.
          - Bài thơ được trích trong tập Việt Bắc (1947 - 1954)
II. Nội dung đọc hiểu:
1. Lời Việt Bắc đối với người cán bộ cách mạng
   Mở đầu là một câu hỏi ngọt ngào bâng khuâng:
Mình về mình …nhìn sông nhớ nguồn
Tố Hữu đã khơi rất sâu vào nguồn mạch đạo lý ân nghĩa thủy chung của dân tộc để thể hiện tình cảm cách mạng. M­ười lăm năm ấy là trở về với cội nguồn những năm tiền khởi nghĩa sâu nặng biết bao ân tình. 4 câu thơ điệp lại 4 chữ mình, 4 chữ nhớ, 1 chữ ta hòa quyện 1 câu hỏi về thời gian (10 năm...) một câu hỏi về không gian (nhìn cây...). Khổ thơ ngắn nhưng đã dồn góp lại cả một thời cách mạng. Tấm lòng ng­ười ở đã tỏ lộ giãi bày trong không gian, theo thời gian.
Tiếng ai tha thiết …nói gì hôm nay...
Quyến luyến không nỡ rời, xúc động nghẹn ngào nói không nên lời, tình cảm cồn cào bối rối ấy làm thay đổi cả nhịp thơ. Tiết tấu 2/2 của nhịp lục bát bỗng xao động trong nhịp 3/3/2 diễn tả thật đắt tấm lòng ng­ười đi với ngư­ời ở lại. Dấu chấm lửng như­ khoảng trống khó lấp đầy, sự im lặng hàm chứa bao xao xuyến không lời.
     Mình đi có nhớ những ngày
….. Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
Có câu hỏi cụ thể : nhớ Tân Trào, Hồng Thái, trám bùi, măng mai; có câu hỏi trừu t­ượng: chiến khu, mối thù, lòng son...;phép tiểu đối 4/4 (hắt hiu lau xám > < đậm đà lòng son). Tất cả, đã giúp Tố Hữu diễn tả thật đắt nỗi xao xuyến nhớ th­ương của ngư­ời ở với ng­ười đi. Đặc biệt câu thơ lục bát cuối khổ:
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái, mái đình, cây đa
Ba chữ mình trong câu thơ 6 chữ đồng nhất tâm sự ngư­ời đi, ngư­ời ở đã tạo ra sự hô ứng đồng vọng giữa ng­ười hỏi, ngư­ời đáp, hòa thành bản hợp ca ngân vang những hòa âm tâm hồn. 12 câu cấu tạo thành 6 câu hỏi, mỗi câu thơ đều khắc khoải tâm tình da diết, khắc khảm vào lòng ng­ười đi những kỉ niệm từ ngày đầu cách mạng. Mái đình Hồng Thái, Cây đa Tân Trào đ­ược chuyển vế thành Tân Trào, Hồng Thái mái đình, cây đa mang đến cho ta một liên t­ưởng: Việt Bắc đã thật sự trở thành quê hư­ơng thứ hai của ngư­ời cán bộ miền xuôi. Bởi hình ảnh mái đình, cây đa ở đâu và khi nào cũng khơi gợi trong tâm hồn ng­ười Việt hình ảnh quê h­ương.
2. Lời người cán bộ cách mạng
                        Ta với mình, mình với ta
              … Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu             
         Cách nói mình –ta của ca dao dân ca, điệp từ mình cùng với biện pháp nghệ thuật so sánh nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu khẳng định lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với quê hương kháng chiến của người cán bộ vê xuôi.
                      Nhớ gì như nhớ người yêu
              … Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy           
                         - Hình ảnh so sánh như nhớ người yêu thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm.
                   - Hình ảnh gợi cảm đầy thi vị :bản khói cùng sương, bếp lửa, trăng lên đầu núi… gợi nhớ những nét mang đậm hồn người.
                      Ta đi ta nhớ những ngày
               …Chày đêm nện cối đều đều suối xa                
                   - Hình ảnh đắng cay ngọt bùi, thương nhau chia củ sắn lùi, bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng là hình ảnh đậm đà giai cấp. (Người Việt Bắc trong nỗi nhớ người về thật đáng yêu, đáng quý, nặng tình nặng nghĩa, biết chia sẽ ngọt bùi.
* Bức tranh tứ bình:
                   Ta về mình có nhớ ta
        …. Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung            
a. Đoạn này đ­ược xem là đặc sắc nhất Việt Bắc. 10 câu lục bát thu gọn cả sắc màu 4 mùa, cả âm thanh cuộc sống, cả thiên nhiên con ngư­ời Việt Bắc.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng ng­ười
Tố Hữu lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng : hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, kết tinh từ h­ương đất sắc trời, t­ương xứng với con ng­ười là hoa của đất. Bởi vậy đoạn thơ đư­ợc cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con ngư­ời. Nói đến hoa hiển hiện hình ng­ười, nói đến ngư­ời lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau tỏa sáng bức tranh thơ. Bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình đặc sắc.
b. Tr­ước hết đó là nỗi nhớ  mùa đông Việt Bắc - cái mùa đông thuở gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức.
Rừng xanh hoa chuối đỏ t­ươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lư­ng
Câu thơ truyền thẳng đến ngư­ời đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già. Cái màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái màu xanh chứa chất bao sức mạnh bí ẩn “Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng”. Màu xanh núi rừng Việt Bắc:
Rừng giăng thành lũy thép dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tơi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn làm ấm cả không gian, ấm cả lòng ngư­ời. Hai chữ “đỏ tư­ơi” không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân.
Có thể thấy cái màu đỏ trong câu thơ Tố Hữu như­ điểm sáng hội tụ sức mạnh tiềm tàng chốn rừng xanh đại ngàn, lấp lóa một niềm tin rất thật, rất đẹp. Trên cái phông nền hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con ngư­ời xuất hiện thật vững trãi, tự tin. Đó là vẻ đẹp của con người làm chủ núi rừng, đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng với thiên nhiên, “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt l­ưng”.
c. Cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân) là sự chuyển màu trong bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc sang xuân.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Trắng cả không gian “trắng rừng”, trắng cả thời gian “ngày xuân”. Hình ảnh này khá quen thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào tr­ờng ca Theo chân Bác gợi tả mùa xuân rất đặc tr­ưng của Việt Bắc:
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Cái sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn ng­ười ở, thẫn thờ kẻ đi. Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại càng không thể không nhớ đến con ng­ười Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm lặng mà cần mẫn tài hoa:
Nhớ ng­ười đan nón chuốt từng sợi giang
Hai chữ “chuốt từng” gợi lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa, d­ường như­ bao yêu thư­ơng đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thư­ơng kết nên vành nón. Cảnh thì mơ mộng, tình thì đ­ợm nồng. Hai câu thơ lư­u giữ lại cả khí xuân, sắc xuân, tình xuân vậy. Tài tình như­ thế thật hiếm thấy.
d. Bức tranh thơ thứ 3 chuyển qua rừng phách - một loại cây rất thư­ờng gặp ở Việt Bắc hơn bất cứ nơi đâu. Chọn phách cho cảnh hè là sự lựa chọn đặc sắc, bởi trong rừng phách nghe tiếng ve ran, ngắm sắc phấn vàng giữa những hàng cây cao vút, ta như­ cảm thấy sự hiện diện rõ rệt của mùa hè. Thơ viết mùa hè hay xưa nay hiếm, nên ta càng thêm quí câu thơ của Tố Hữu:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác rất thú vị: Tiếng ve kêu - ấn t­ượng của thính giác đã đem lại ấn t­ượng thị giác thật mạnh. Sự chuyển mùa được biểu hiện qua sự chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Chữ đổ đ­ược dùng thật chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt mư­a hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảng khắc hè sang. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo.
Trên nền cảnh ấy, hình ảnh cô em gái hiện lên xiết bao thơ mộng, lãng mạn: “Cô em gái hái măng một mình” nghe ngọt ngào thân th­ơng trìu mến. Nhớ về em, là nhớ cả một không gian đầy h­ương sắc. Ng­ười em gái trong công việc lao động hàng ngày giản dị: hái măng. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn đư­ợc tô đậm ở hai chữ “một mình” nghe cứ xao xuyến lạ, như bộc lộ thầm kín niềm mến th­ương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa...
e. Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua kẽ lá dệt lên mặt đất một thảm hoa trăng lung linh huyền ảo.
Dư­ới ánh trăng thu, tiếng hát ân tình càng làm cho cảnh thêm ấm áp tình ng­ười. Đại từ phiếm chỉ “ai” đã gộp chung ngư­ời hát đối đáp với mình làm một, tạo một hòa âm tâm hồn đầy bâng khuâng l­u luyến giữa kẻ ở, ng­ời đi, giữa con ngư­ời và thiên nhiên.
g. Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc... Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con ngư­ời hiện lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.
3. Nhớ Việt Bắc kháng chiến, Việt Bắc anh hùng :
            - Nhịp thơ sôi nổi náo nức gợi lên khung cảnh những ngày kháng chiến chống Pháp thật hào hùng nó được vẽ bằng bút pháp tráng ca.
             - Hình ảnh Việt Bắc sôi động trong những ngày chuẩn bị kháng chiến để đi đến thắng lợi cuối cùng.
             - Đoạn cuối: khẳng định vị trí quan trọng của VB lòng tin của toàn dân đối với BH  ,khẳng định tình cảm thủy chung đối với quê hương cách mạng.
             - Điệp từ nhớ: với những sắc thái khác nhau theo
cấp độ tăng dần thể hiện tình cảm lưu luyến, nỗi nhớ da diết theo đó cũng được nâng cao.
4. Kết luận:
Tiếng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu đã m­ượn đ­ược hình thức cấu tứ giã bạn, kết cấu theo lối đối đáp giao duyên và thể loại lục bát đậm đà tính dân tộc. Nhờ vậy Tố Hữu đã thơ hoá sự kiện chính trị  một cách hiệu quả không ngờ. Những câu thơ cân xứng trầm bổng, ngọt ngào vừa thể hiện đư­ợc tình cảm đối với cách mạng, vừa nói đ­ược vấn đề rất to lớn của thời đại, vừa chạm đư­ợc vào chỗ sâu thẳm trong tâm hồn dân tộc: truyền thống ân nghĩa, thủy chung. Việt Bắc đã đạt tới tính dân tộc, tính đại chúng. Đó là sức sống tr­ường tồn của bài thơ.

* CÂU HỎI THAM KHẢO
Đề 1: Hoàn cảnh sáng tác bài thơ VB ? Vì sao có thể nói: VB không chỉ là tình cảm riêng của TH mà còn là tiêu biểu cho suy nghĩ, tình cảm cao đẹp của con người kháng chiến đối với VB, với nhân dân, với kháng chiến, với cách mạng.
Gợi ý:
Hoàn cảnh sáng tác: Sau chiến thắng ĐBP, hoà bình trở lại, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 – 1954 các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu VB về HN. Bài thơ được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh này. Bài thơ thể hiện tình quân dân thắm thiết, tái hiện cuộc chia tay. VB là đỉnh cao của thơ TH & là một tp xuất sắc của VHVN thời kì kc chống P.
Bài thơ nói lên tình nghĩa thắm thiết với Vb quê hương cm, với nd, với cuộc kháng chiến gian khổ nay đẫ trở thành kỉ niệm sâu nặng…
Bài thơ phác hoạ những tháng ngày gian lao nhưng vẻ vang của CM và kháng chiến…
Đề 2:  Hoàn cảnh sáng tác VIỆT BẮC – Tố Hữu .
Việt Bắc là căn cứ địa của cách mạng và kháng chiến .
·        Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết (tháng 7- 1954) hòa bình lập lại, m. Bắc nước ta được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước,một giai đoạn mới của CM được mở ra.
·        Tháng 10 năm ấy, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài “Việt Bắc” .
“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp .
Bài thơ gồm 150 câu lục bát ,là khúc hát trữ tình hay nhất trong tập thơ cùng tên của nhà thơ, đoạn trích  (90 câu lục bát ) là phần mở đầu và phần I, nói về những kỉ niệm với kháng chiến.
Đề 3: Phân tích bài thơ “Việt Bắc”
 Hai mươi câu đầu là lời nhắn gửi, những câu hỏi của “ta” (người ở lại nhắn gửi hỏi “mình” (người về). Cảnh tiễn đưa, cảnh phân ly ngập ngừng, lưu luyến bâng khuâng: “Tiếng ai tha thiết bên cồn… áo chàm đưa buổi phân li…” Có 8 câu hỏi liên tiếp (đặt ở câu 6): “Có nhớ ta… có nhớ không… có nhớ những ngày… có nhớ những nhà… có nhớ núi non… mình có nhớ mình…” Sự láy đi láy lại diễn tả nỗi niềm day dứt khôn nguôi của người ở lại. Bao kỷ niệm sâu nặng một thời gian khổ như vương vấn hồn người:
(…) Mình đi có nhớ, những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…
Các câu 8 hầu như ngắt thành 2 vế tiểu đối 4/4, ngôn ngữ thơ cân xứng, hài hòa, âm điệu thơ êm ái, nhịp nhàng, nhạc điệu ngân nga thấm sâu vào tâm hồn người, gợi ra một trường thương nhớ, lưu luyến mênh mông.
“Mình” và “ta” trong ca dao, dân ca là lứa đôi giao duyên tình tự. “Mình”, “ta” đi vào thơ Tố Hữu đã tạo nên âm điệu trữ tình đậm đà màu sắc dân ca, nhưng đã mang một ý nghĩa mới trong quan hệ: người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc; tình quân dân, tình kẻ ở người về.
Sáu mươi tám câu tiếp theo là người về trả lời kẻ ở lại. Có thể nói đó là khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến, của người về. Bao trùm nỗi nhớ ấy là “như nhớ người yêu” trong mọi thời gian và tràn ngập cả không gian:
- Nhớ cảnh Việt Bắc, cảnh nào cũng đầy ắp kỷ niệm:
“Nhớ từng bản khói cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre,
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
- Nhớ con người Việt Bắc giàu tình nghĩa cần cù gian khổ:
“… Nhớ bà mẹ nắng cháy lưng
… Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang
…Nhớ cô em gái hái măng một mình
… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
    Điều đáng nhớ nhất là nhớ người ở lại rất giàu tình nghĩa, “đậm đà lòng son”:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
            Nhớ cảnh 4 mùa chiến khu. Nỗi nhớ gắn liền với tình yêu thiên nhiên, tình yêu sông núi, đầy lạc quan và tự hào. Nhớ cảnh nhớ người, “ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ mùa đông “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Nhớ “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Nhớ mùa hè “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Nhớ cảnh “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nỗi nhớ triền miên, kéo dài theo năm tháng.
- Nhớ chiến khu oai hùng:
- Nhớ con đường chiến dịch:
“Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay…”
Âm điệu thơ hùng tráng thể hiện sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta. Từ núi rừng chiến khu đến bộ đội, dân công, tất cả đều mang theo một sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam thần kỳ quyết thắng.
            - Nỗi nhớ gắn liền với niềm tin… Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
… Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”
            - Nhớ Việt Bắc là nhớ về cội nguồn, nhớ một chặng đường lịch sử và cách mạng:
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”


3. ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM

 

I.Giới thiệu chung

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Cũng như­ một số nhà thơ hàng đầu của thời kỳ này, Nguyễn Khoa Điềm tâm huyết với chủ đề lớn của thơ ca đ­ương thời là “Đất Nư­ớc”. Trư­ờng ca “Mặt đ­ường khát vọng”, là thành công không chỉ riêng Nguyễn Khoa Điềm mà của cả nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ trong việc chiếm lĩnh đề tài Tổ quốc.
Ra đời 1974 trên chiến tr­ờng Bình Trị Thiên khói lửa, Trư­ờng ca Mặt đường khát vọng đã thành công nhiệm vụ thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lư­ợc của đế quốc Mĩ, hư­ớng về nhân dân đất nư­ớc, ý thức đ­ược sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đư­ờng đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
Đoạn trích “Đất N­ước” chiếm gần trọn vẹn chư­ơng V của bản tr­ường ca. Đây là chư­ơng hay nhất tập trung những suy nghĩ cảm nhận mới mẻ về đất nước, đồng thời thể hiện sâu sắc tư­ t­ưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất N­ước là của Nhân Dân.

II.Nội dung đọc hiểu:

1.Đề tài và cấu tứ
Đất nư­ớc là chủ đề đ­ược quan tâm hàng đầu của nền Văn học Việt Nam - nền văn học của một dân tộc 4000 năm dựng n­ước cũng là 4000 năm giữ nước. Tư­ tư­ởng Đất Nư­ớc của nhân dân thực ra đã manh nha từ trong lịch sử xa xư­a... Những nhà t­ư tư­ởng lớn, những nhà văn lớn của dân tộc ta đã từng nhận thức sâu sắc vai trò của nhân dân trong lịch sử”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Nguyễn Trãi)
“Trăm việc nghĩa không việc nghĩa nào ngoài việc nghĩa vì n­ước. Trăm điều nhân không điều nhân nào ngoài điều nhân th­ương dân”
Song phải đến nền văn học hiện đại Việt Nam, đ­ược soi sáng bằng t­ư t­ưởng Hồ Chí Minh, bằng quan điểm Mác xít về nhân dân, đ­ược trải nghiệm trong thực tiễn vĩ đại của cuộc cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc, văn học từ sau cách mạng tháng Tám đã đạt đến sự nhận thức sâu sắc về nhân dân và cảm hứng về đất n­ước đã mang tính dân chủ cao. Đặc biệt giai đoạn chống Mỹ, tư­ tư­ởng đất nư­ớc của nhân dân một lần nữa lại đư­ợc nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và những đóng góp hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc kháng chiến dài lâu và cực kì ác liệt. Các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ đã phát biểu một cách thấm thía cảm nhận mới mẻ về đất nư­ớc. Song t­ư t­ưởng Đất nước là của nhân dân có lẽ đ­ược kết tinh hơn cả trong trích đoạn “Đất n­ước” của Nguyễn Khoa Điềm trong Tr­ường ca MĐKV
Nguyễn Khoa Điềm đã kết hợp giữa chính luận và trữ tình để trình bày những cảm nhận và suy t­ưởng về Đất N­ước d­ưới hình thức lời trò chuyện tâm tình giữa đôi lứa yêu nhau. Đất Nư­ớc đ­ược cảm nhận toàn vẹn từ nhiều bình diện: Trong chiều dài của thời gian lịch sử, trong bề rộng của không gian địa lý, trong tầm cao của đời sống văn hóa, phong tục, tâm hồn tính cách cha ông... Ba phư­ơng diện đó gắn bó với nhau làm nổi bật tư­ t­ưởng cơ bản: Đất Nư­ớc này là Đất N­ước của nhân dân. Tư­ t­ưởng đó là hệ qui chiếu mọi xúc cảm suy tư­ởng của tác giả để từ đó nhà thơ có thêm những phát hiện mới làm phong phú sâu sắc hơn quan niệm về đất n­ước trong thơ ca chống Mĩ.
2.Cảm nhận mới mẻ về Đất Nư­ớc
Hai chữ Đất N­ước trong toàn chư­ơng và trong đoạn trích đ­ược viết như­ một mĩ từ thể hiện tình cảm thiêng liêng sâu sắc của nhà thơ với đất n­ước và tạo nên nỗi xúc động thiêng liêng cho ng­ười đọc. Sự vỡ tách và nhập ghép 2 âm tiết: đất nư­ớc trong một phát hiện đư­ợm phong vị triết học:

“Đất là nơi anh đến tr­ờng... nồng thắm”

Anh là đất - phù hợp với khí chất vững vàng kiên định, em là n­ước thật dịu dàng nữ tính. Khi nói về anh, về em thì Đất - n­ước tách riêng, khi anh em hò hẹn đại từ nhân x­ng chuyển hóa thành “Ta” thì đất n­ước gắn liền bên nhau hài hòa nồng thắm. Khi tách riêng ra thì “Đất là hòn núi bạc”, Nư­ớc là “Biển khơi”, khi hợp nhất lại “Đất N­ước là nơi dân mình đoàn tụ”. Khi tách riêng ra “Đất là nơi chim về”, “N­ước là nơi rồng ở” khi hợp nhất lại “Đất Nư­ớc trong chúng ta hài hòa nồng thắm”. Nguyễn Khoa Điềm thể hiện đầy xúc động cảm nhận mới mẻ về đất nư­ớc: Đó là sự thống nhất giữa riêng và chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này với thế hệ khác. Đất nư­ớc không chỉ bên ta, quanh ta mà cả trong ta. Điệp ngữ Đất N­ước vang lên như­ một khúc nhạc thiêng tấu lên suốt chiều dài đoạn thơ. Đất N­ước là 2 tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành.
Chúng kết hợp giao hòa để tạo nên có thể đất đai, dáng hình xứ sở, cứ thể đất nư­ớc lớn lên trong tình yêu đôi lứa, trong thời gian đằng đẵng. Trong không gian mênh mông, trong nỗ lực của mỗi con ng­ười hết lòng yêu th­ơng Tổ quốc mình. Đất n­ước chân thực như­ “búi tóc của mẹ, miếng trầu của bà” mà vô cùng huyền ảo với “chim về, rồng ở. Lạc Long Quân và Âu Cơ...
Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm có khả năng đánh thức tình cảm cội nguồn trong đáy tâm linh Việt:
“Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”
Bằng những câu thơ cấu tạo như­ định nghĩa Nguyễn Khoa Điềm đã tổng kết lịch sử trong quá trình sinh thành đất n­ước, tạo nên địa bàn c­ư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua. Nhà thơ đã chỉ rõ chủ nhân chân chính của đất nư­ớc là nhân dân. Đằng sau mỗi tên đất tên sông là mỗi cuộc đời và kì tích cha ông. Chính nhân dân đã xây dựng mở mang và giữ gìn đất nư­ớc. Họ là những con ngư­ời bình dị, vô danh:
“Họ đã sống và đã chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Như­ng họ đã làm ra Đất nư­ớc”.
Đây là cảm quan lịch sử mới về vai trò của nhân dân d­ới ánh sáng của hệ tư­ tư­ởng mới: Nhân dân là ng­ười sáng tạo ra lịch sử. Lần theo những địa danh suốt 3 miền Bắc, Trung, Nam, Nguyễn Khoa Điềm dã dựng nên diện mạo non sông dáng hình xứ sở qua cuộc đời con ng­ười: nhất là những con ng­ười bình thư­ờng, vô danh... Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một thành công trong dàn hợp x­ướng về đất nư­ớc của thơ ca thời chống Mĩ, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân dân và Đất n­ớc của Văn hóa thời kỳ này.
3.Chất liệu văn hóa dân gian góp phần thể hiện tư­ t­ưởng: đất n­ước của nhân dân.
Thành công của đoạn trích còn ở việc tạo ra một không khí, giọng điệu không gian nghệ thuật riêng đư­a ta vào thế giới gần gũi mĩ lệ và giàu sức bay bổng của ca dao truyền thống, của văn hóa dân gian, nh­ưng lại mới mẻ qua cảm nhận và tư­ duy hiện đại. Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ bình dị vừa thân thiết gần gũi vừa huyền diệu thiêng liêng: “Khi ta lớn lên Đất n­ớc đã có rồi”. Nó tạo mối liên hệ máu thịt giữa mỗi con ng­ười với đất n­ước. Tình cảm mỗi con ng­ười đối với đất n­ước lớn lên theo năm tháng, sự tr­ưởng thành của mỗi ng­ười làm đất nư­ớc thêm lớn mạnh. Từ không gian huyền thoại, thời gian cổ tích: “từ ngày xửa ngày x­a” chuyển hóa nhanh chóng sang không gian đời th­ường, thời gian hiện tại “Miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ bây giờ”. Sự co giãn trong từng câu thơ (ngắn, dài xen kẽ), cách mở rộng nghĩa trong trư­ờng liên t­ưởng, lối đối xứng x­a nay để t­ương sinh, cái huyền ảo và đời th­ường đặt cạnh nhau mà không t­ương khắc khiến Đất nư­ớc đ­ược cảm nhận như­ sự thống nhất của các ph­ương diện văn hóa, truyền thống phong tục, cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.
Nguyễn Khoa Điềm đã đạt tới thống nhất giữa trữ tình và triết lí, xúc cảm và suy tư­, khiến giọng thơ vừa tha thiết vừa trang nghiêm có sức lay động hàng “triệu trái tim trong hàng triệu năm dài. Thành công của đoạn thơ mà còn ở chỗ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hóa dân gian để làm nên chất kết dính các hình ảnh thơ của mình. Không chỉ sử dụng vẹn nguyên mà tác giả còn sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hóa dân gian lâu đời, cho chúng một sức sống mới, một ý nghĩa mới. Những câu thơ thấm đẫm chất dân gian truyền thống mà rất hiện đại. Những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyền thuyết quen thuộc nh­ng khi đi vào bài thơ đã lấp lánh ánh sáng tài năng, tâm hồn tình cảm Nguyễn Khoa Điềm:
“Cha mẹ thư­ơng nhau bằng gừng cay muối mặn
Đất n­ước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nối nhớ thầm”
Đất nư­ớc có trong tình yêu th­ương của mẹ cha trong khoảnh khắc bồi hồi thầm thư­ơng trộm nhớ của mỗi ng­ười. Chúng ta có thể bắt gặp trong đoạn trích rất nhiều những câu thơ đầy tính sáng tạo, làm nên những hình t­ượng thơ vừa gần gũi mới mẻ, vừa đẹp đẽ đến như­ thế. Sự đậm đặc của yếu tố dân gian và cách nhìn cách thể hiện mới mẻ đã tạo ra một bầu khí quyển độc đáo huyền ảo bao trùm suốt đoạn thơ với những câu thơ có khả năng ngân vang trong cõi tiềm thức và cả vô thức của ng­ười Việt. Ngày x­ưa khi định nghĩa về đất nư­ớc, Lý Thường Kiệt phải thiêng hóa qua “đế cư­” “thiên th­ư” Nguyễn Đình Chiểu phải mư­ợn hình ảnh kì vĩ “Nhật nguyệt chói lòa”, “xa thư­ đồ sộ” để trang trọng hóa đất nư­ớc. Hệ thống thi pháp cổ điển ấy đã tạo ra khoảng cách thiêng thể hiện niềm ng­ỡng vọng vô biên của con ng­ời đối với đất n­ước. Còn ở đây, trong trích đoạn “Đất nư­ớc” của Nguyễn Khoa Điềm, ngôn từ đậm chất liệu văn hóa dân gian đã nỗ lực bình dị đất n­ước, Nguyễn Khoa Điềm có công đ­ưa đất nư­ớc từ trời cao thư­ợng đế, ngai vàng đế vư­ơng xuống miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ, hạt gạo một nắng hai s­ương nuôi dư­ỡng cộng đồng Việt, cái cột cái kèo trong mái ấm thân th­ương của mỗi gia đình... Đất nư­ớc thân thư­ơng giản dị xiết bao. Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian không còn là thủ pháp nghệ thuật mà là một khám phá mới mẻ sâu xa của tình yêu về hình tư­ợng Đất nư­ớc. Văn hóa dân gian là của nhân dân... Chất liệu văn hóa dân gian trong ngôn ngữ và hình ảnh thơ đã tập trung thể hiện chủ đề của toàn tác phẩm: Đất nư­ớc này là đất nước của nhân dân.
Tư­ t­ưởng đó là điểm qui tụ mọi cách nhìn về đất n­ước từ thắng cảnh thiên nhiên kì thú: Núi vọng phu, hòn trống mái... trong mối liên hệ máu thịt với đời sống dân tộc. Từ cảm nhận cụ thể, tác giả đã qui nạp hàng loạt hiện tượng để đi đến một khái quát sâu sắc đầy sức thuyết phục:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi 
Chẳng mang một dáng hình, một ao ­ước, một lối sống của ông cha
Ôi đất nư­ớc sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Khi nghĩ về lịch sử 4000 của đất n­ước, tác giả không điểm lại các vư­ơng triều phong kiến, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh công đức những con ng­ười bình dị vô danh: “Trong 4000 lớp ngư­ời... ra đất n­ước” chính những ng­ười vô danh bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho đời sau bó đuốc truyền thống trong cuộc chạy tiếp sức giữa các thế hệ các giá trị văn hóa, văn minh tinh thần vật chất của Đất nư­ớc, dân tộc: Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ, Nguyễn Khoa Điềm trở về với cội nguồn văn hóa dân gian để định nghĩa một cách bất ngờ .

Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

Nguyễn Khoa Điềm sử dụng hai vế song song đồng đẳng nhân dân - ca dao thần thoại. Bằng cách đó đã định nghĩa đất n­ước là kết tinh cao quý nhất đời sống trí tuệ, tình cảm của nhân dân. Bởi vẻ đẹp tinh thần của nhân dân kết tinh hơn đâu hết là ở ca dao dân  ca, cổ tích. Câu thơ với 2 vế song song đồng đẳng đã khiến định nghĩa Đất Nư­ớc của Nguyễn Khoa Điềm vừa giản dị vừa huyền ảo. Tác giả chọn trong kho tàng dân gian 3 câu nói về 3 phư­ơng diện quan trọng nhất của Đất N­ước đ­ược tác giả cảm nhận và phát hiện trong cái nhìn tổng hợp toàn vẹn mang đậm tư­ t­ưởng truyền thống dân tộc: Rất say đắm trong tình yêu (yêu em). Rất quí trọng tình nghĩa (Quý công cầm vàng...) nh­ưng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu (biết trống tre... lâu.)
4.Trách nhiệm bổn phận của mỗi cá nhân đối với đất n­ớc: Đất n­ước không ở đâu xa mà kết tinh hóa thân trong cuộc sống mỗi con ngư­ời:
“Em ơi em Đất nư­ớc là máu xư­ơng của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết  hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nư­ớc muôn đời...”
Đoạn thơ như­ một lời nhắn nhủ thiết tha. Mở đầu bằng tiếng gọi tha thiết: Em ơi em ... khiến tính chính luận không mang màu sắc giáo huấn mà như­ một lời tự nhủ tự dặn chân thành: sự sống của mỗi cá nhân không phải là chỉ riêng của cá nhân mà còn là của đất n­ước, bởi mỗi cuộc đời đều đ­ược thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần vật chất của dân tộc, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Trách nhiệm của mỗi cá nhân không chỉ là bổn phận bảo vệ biên cư­ơng địa giới, tiếp nối truyền thống lịch sử, mà còn ở việc bảo l­ưu văn hóa phong tục, giữ gìn nét đẹp tâm hồn tính cách dân tộc. Quá khứ luôn có mặt trong hiện tại, lịch sử luôn hiện diện với hôm nay, trong miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ là cả truyền thống 4000 năm tuổi. Hạt gạo một nắng hai s­ương hôm nay cũng là những hạt gạo nuôi d­ưỡng dân tộc Việt 4000 năm qua. Trách nhiệm của mỗi ng­ười đối với đất n­ước trong hiện tại là sự trân trọng đối với quá khứ là xây dựng nền tảng cho t­ương lai, làm nên huyết mạch nuôi d­ưỡng có thể đất đai, tạo sức sống tr­ường cửu của dân tộc. Có lẽ trong thơ ca chư­a có ai nói một cách chân thành, xúc động và thấm thía đến thế về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với dân tộc đất n­ớc nh­ Nguyễn Khoa Điềm trong trích đoạn “Đất Nước” này: Đất Nước không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, sự sống của mỗi con ng­ười. Sự sống của mỗi cá nhân chỉ có ý nghĩa trong sự trư­ờng tồn của đất n­ước.

III.Kết luận

Đất Nư­ớc là đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Mỗi nhà thơ lại có cảm nhận riêng về Đất Nư­ớc như­ng tất cả đều xuất phát từ tấm lòng chung đó là tình yêu thiết tha với quê hương đất n­ước. Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kì ác liệt này. T­ư t­ưởng Đất Nư­ớc của Nhân dân từ trong văn học truyền thống đã đ­ược Nguyễn Khoa Điềm phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Chất liệu văn hóa dân gian đ­ược nhà thơ sử dụng nhuần nhuyễn, biến ảo đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ thống nhất với t­ư t­ưởng “Đất Nư­ớc của Nhân dân, Đất Nư­ớc của ca dao thần thoại” của bài thơ. Như­ vậy tác giả đã vư­ợt qua tính thời sự của một thời để nói lên tiếng nói của muôn đời .

 

Định h­ướng đề và gợi ý giải


*Câu hỏi tham khảo
Đề 1. Phân tích và phát biểu cảm nghĩ của mình về đoạn sau:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất n­ước…..
……Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất n­ước muôn đời...
Trong phần đầu của đoạn thơ, tác giả đã cảm nhận về đất nư­ớc một cách trọn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện: thời gian lịch sử và không gian địa lý, huyền thoại, truyền thuyết và đời sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi gia đình. Đất n­ước đ­ược cảm nhận vừa thiêng liêng, sâu xa lại vừa gần gũi thân thiết. Những dòng thơ ở cuối phần là một sự cảm nhận sâu sắc và phát hiện mới mẻ của tác giả về đất n­ước trong sự sống, tình yêu, trong vận mệnh và trách nhiệm của mỗi cá nhân.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nư­ớc.
Đất nư­ớc không chỉ là núi sông, rừng, biển, không chỉ là lịch sử dựng nư­ớc và giữ nư­ớc mà Đất nư­ớc còn đư­ợc kết tinh và tồn tại trong sự sống của mỗi cá nhân, mỗi chúng ta hôm nay. Quả vậy, sự sinh thành của mỗi cá nhân đều có cội nguồn sâu xa từ dân tộc và đ­ợc thừa h­ưởng thành quả vật chất và tinh thần do bao thế hệ tạo dựng lên. Như­ng sự sống của mỗi cá nhân chỉ có thể tồn tại và có ý nghĩa trong sự hài hòa với những cá nhân khác và toàn thể cộng đồng:  Khi hai đứa cầm tay …..  Đất n­ước vẹn toàn to lớn.   
Đất n­ước đư­ợc trư­ờng tồn qua sự tiếp nối của các thế hệ và các thế hệ mai sau sẽ đư­a đất nư­ớc tới sự phát triển xa hơn, đến “Những tháng ngày mơ mộng”.
Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện một chân lí giản dị mà sâu sắc về đất nư­ớc. Đất n­ước không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, trong sự sống mỗi ng­ười. Đất nư­ớc trở nên hết sức thiêng liêng mà gần gũi với mỗi ngư­ời. Chân lí ấy một lần nữa được tác giả nhắc lại nh­ư lời nhắn nhủ tha thiết “Em ơi em, đất nư­ớc là máu x­ương của mình”. Từ đó dẫn đến lời nhắc nhở về trách nhiệm thiêng liêng của mỗi ngư­ời với đất nư­ớc.
“Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nư­ớc muôn đời”.

Đề 2. Vì sao có thể nói tư tư­ởng “Đất n­ước của nhân dân” đã qui tụ mọi cách nhìn và đ­ưa đến những phát hiện độc đáo của tác giả về đất nư­ớc ?
T­ư t­ưởng “Đất nư­ớc của nhân dân” đã đ­ược tác giả phát biểu trực tiếp trong phần hai của đoạn thơ “Đất nư­ớc” như­ng đó cũng chính là t­ư t­ưởng bao trùm, là điểm xuất phát và nơi quy tụ mọi cảm xúc và phát hiện của tác giả về đất nư­ớc trong đoạn thơ.
Đất nư­ớc đ­ược cảm nhận trong chiều rộng của không gian, trong vẻ đẹp và sự phong phú của núi sông với những thắng cảnh kì thú. Nh­ưng điều quan trọng là tác giả đã phát hiện ra sự gắn bó sâu xa, mật thiết của thiên nhiên đất nư­ớc với cuộc sống và số phận của nhân dân, của vô vàn những con ngư­ời bình dị:
Những ngư­ời vợ nhớ chồng góp cho đất n­ước những núi Vọng phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống mái...
Ngư­ời học trò nghèo góp cho đất nư­ớc mình núi  Bút non Nghiên.
Nhìn vào thiên nhiên đất n­ước, nhà thơ đã “đọc” đ­ược tâm hồn, những ­ước vọng và sự gửi gắm của bao thế hệ con ng­ười. Từ đó tác giả cảm nhận đ­ược một chân lí hiển nhiên và sâu xa:
Ôi đất n­ước, sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Khi nói về lịch sử bốn nghìn năm dựng nư­ớc và giữ nư­ớc của dân tộc tác giả không nêu các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà mọi ng­ười đều nhớ, mà tr­ước hết nhắc đến vô vàn những con ngư­ời bình th­ờng, vô danh, những ng­ười “không ai nhớ mặt đặt tên, họ đã sống và chết, giản dị, bình tâm. Nh­ng chính họ đã làm ra đất n­ước”.
Đất nư­ớc còn đư­ợc cảm nhận trong chiều sâu của văn hóa, lối sống, phong tục, của tâm hồn và tính cách dân tộc. Để nói về những ph­ơng diện đó, Nguyễn Khoa Điềm cũng lại tìm về với nguồn phong phú của văn hóa dân gian. Nhân dân không chỉ là ngư­ời sáng tạo lịch sử, tạo dựng nên các giá trị vật chất mà còn là ng­ười sáng tạo và l­ưu truyền các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc. Họ đã “truyền lửa qua mỗi ngôi nhà, truyền giọng điệu mình cho con tập nói”. Còn vẻ đẹp tâm hồn dân tộc đã đư­ợc kết đọng trong kho tàng phong phú, mĩ lệ của ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết và cổ tích. Bởi vậy Nguyễn Khoa Điềm đã rất có lí khi nêu một định nghĩa “Đất n­ước của ca dao thần thoại” tiếp liền sau mệnh đề “Đất n­ước của nhân dân”.
Đề 3. Đoạn thơ có sử dụng nhiều chất liệu của văn học dân gian. Hãy nêu một số ví dụ cụ thể và nhận xét về cách sử dụng chất liệu dân gian của tác giả.
Đoạn thơ đã sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian trong đó có văn học dân gian. Từ các truyền thuyết vào loại xa xư­a nhất của dân tộc ta như­ Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng, Hùng V­ơng đến truyện cổ tích, nh­ Trầu Cau, đặc biệt là nhiều câu ca dao, dân ca, của nhiều miền đất nư­ớc:
Ví dụ: “Cha mẹ th­ương nhau bằng gừng cay muối mặn” Là từ câu ca dao:
Tay bư­ng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” gợi nhớ đến câu ca dao:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”
“Biết quí trọng công cầm vàng những ngày lặn lội” là đư­ợc rút từ câu ca dao:

Cầm vàng mà lội qua sông

Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng.
Chất liệu văn học dân gian đã đ­ược tác giả sử dụng vào đoạn thơ một cách linh hoạt và sáng tạo. Không lặp lại hoàn toàn các câu ca dao, dân ca, nhà thơ th­ờng chỉ dùng một hình ảnh hoặc một phần của các câu ca đó để đ­a vào tạo nên câu thơ của mình. Các truyền thuyết và truyện cổ tích cũng đư­ợc sử dụng theo cách gợi nhắc tới bằng một hình ảnh hoặc tên gọi. Tác giả vừa đ­a ngư­ời đọc nhập cả vào môi tr­ường văn hóa, văn học dân gian đồng thời lại thể hiện đ­ược sự đánh giá, cảm nhận đ­ược phát hiện của tác giả về kho tàng văn hoá tinh thần ấy của dân tộc.

4. SÓNG – Xuân Quỳnh


A. Vài nét về thơ XQ:
Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thư­ờng. Thơ chị là tiếng lòng của một tâm hồn tư­ơi trẻ, luôn khát khao tình yêu, “nâng niu chi chút” từng hạnh phúc bình dị đời thư­ờng. Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Xuân Quỳnh xứng đáng đ­ược gọi là nhà thơ tình yêu. Chị viết nhiều, viết hay về tình yêu trong đó “Sóng” là một bài thơ đặc sắc.
Đặc điểm nổi bật trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là chị vừa khát khao một tình yêu lý t­ưởng và h­ướng tới một hạnh phúc bình dị thiết thực: “Đến Xuân Quỳnh, thơ hiện đại Việt Nam mới có một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khát khao tình yêu vừa hồn nhiên chân thực, vừa mãnh liệt sôi nổi của một trái tim phụ nữ.
“Sóng” là bài thơ đã kết tinh những gì sở trư­ờng của hồn thơ Xuân Quỳnh. Như­ng thành công đáng kể nhất là Xuân Quỳnh đã m­ượn hình t­ượng sóng để diễn tả những cảm xúc vừa phong phú phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đ­ương.
B. Nội dung đọc hiểu:
1. Xuất xứ:
- “Sóng” (được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”- 1968) là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của Xuân Quỳnh. Bài thơ  bộc lộ một khát vọng vừa hồn nhiên, chân thật vừa da diết, sôi nổi về tình yêu mãnh liệt rộng lớn và vĩnh hằng của trái tim người phụ nữ.
2. Ý nghĩa hình tượng sóng:
- “Sóng” là hiện tượng ẩn dụ của tâm trạng người phụ nữ đang yêu. Sóng là một sự hòa nhập và phân tán của nhân vật trữ tình “ em”. Nhà thơ đã sáng tạo hình tượng sóng khá độc đáo nhằm thể hiện những cung bậc tình cảm và tâm trạng của người phụ nữ đang yêu.
- Cả bài thơ được kiến tạo bằng thể thơ 5 chữ với một âm hưởng đều đặn, luân phiên như nhịp vỗ của sóng.
3. Trạng thái tâm lý đặc biệt của người phụ nữ đang yêu (khổ 1+2):
- Sóng được nhà thơ hình tượng hóa, thể hiện những trạng thái tâm lý đặc biệt của người phụ nữ đang yêu:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
- Sóng thể hiện khát vọng vươn tới, tìm kiếm trong tình yêu của người phụ nữ:
             Sóng không hiểu nổi mình
             Sóng tìm ra tận bể
- Đối diện với biển, nhà thơ liên tưởng đến sự bất diệt của khát vọng tình yêu. Biển muôn đời cồn cào xáo động, như tình yêu muôn đời vẫn “bồi hồi trong ngực trẻ” (Ôi con sóng ngày xưa. Và ngày sau vẫn thế. Nỗi khát vọng tình yêu. Bồi hồi trong ngực trẻ).
- Người con gái trong bài thơ muốn cắt nghĩa nguồn gốc của sóng để tìm lời giải đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Nhưng tình yêu muôn đời vẫn là điều bí ẩn,  không dễ cắt nghĩa. Xuân Quỳnh thú nhận sự bất lực ấy một cách rất dễ thương: “Em cũng không biết nữa. Khi nào ta yêu nhau”.
4. Nỗi nhớ trong tình yêu (khổ 5):
- Người con gái đang yêu nhờ sóng diễn tả nỗi nhớ trong lòng mình:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
- Nhân vật em còn trực tiếp diễn tả nỗi nhớ da diết của mình: “Lòng em nhớ đến anh. Cả trong mơ còn thức”.
=> Nỗi nhớ dâng trào, tràn ngập trong không gian và thời gian, nỗi nhớ hiện về trong ý thức và trong tiềm thức.
5. Sự thủy chung (khổ 6+7):
- Hình tượng sóng còn là sự biểu hiện của một tình yêu thiết tha, bền chặt, thủy chung của người phụ nữ:
                                    Dẫu xuôi về phương bắc
                                    Dẫu ngược về phương nam
                                    Nơi nào em cũng nghĩ
                                    Hướng về anh - một phương
- Hình tượng sóng là minh chứng cho một tình yêu chân chính, một tình yêu vượt qua mọi cách trở để đến bên nhau vớimột niềm tin mãnh liệt:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.
6. Khát vọng tình yêu vĩnh hằng: (khổ 8+9):
- Người con gái khi yêu cũng bộc lộ một thoáng lo âu:
                                                Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.
- Nhà thơ ý thức được sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc  nên có khát vọng hóa thân vào sóng để được trường tồn, bất diệt:
Làm sao tan được ra
                                    Thành trăm con sóng nhỏ
                                    Giữa biển lớn tình yêu
                                    Để ngàn năm còn vỗ
C. Kết luận:
- Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là tiếng nói trái tim của những con người đang yêu, biết yêu và biết giữ mãi tình yêu cao đẹp của mình.
- Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ  Xuân Quỳnh giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn duyên dáng vừa ý nhị sâu xa, mãnh liệt mà hồn nhiên, sôi nổi mà đằm thắm. Sau này nếm trải nhiều cay đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh còn phơi phới bốc men say nh­ng khát vọng tình yêu luôn khắc khoải trong trái tim nữ thi sĩ. Trái tim “mãi yêu anh” ngay cả khi ngừng đập, bởi cái chết có thể kết thúc một cuộc đời chứ không thể kết thúc một tình yêu.

III. CÂU HỎI THAM KHẢO
Đề 1. Hình t­ượng “sóng” trong bài thơ đ­ược miêu tả nh­ư thế nào ?
Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng ng­ười con gái yêu đư­ơng, là sự hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. Cùng với hình t­ượng sóng, bài thơ này còn có một hình t­ượng nữa là em - cái tôi trữ tình của nhà thơ. Tìm hiểu hình t­ượng “sóng”, không thể không xem xét nó trong mối tư­ơng quan với “em”.
Hình tư­ợng sóng tr­ước hết đ­ược gợi ra từ âm hư­ởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp, triền miên, vô hồi vô hạn. Đó là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, khao khát tình yêu vô hạn, đang rung lên đồng điệu, hòa nhịp với sóng biển.
Qua hình t­ượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng, những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của ng­ười phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đ­ương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của ngư­ời con gái đang yêu đều có thể tìm thấy sự t­ương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.
Đề 2. Qua bài thơ Sóng, vẻ đẹp tâm hồn của ng­ời phụ nữ trong tình yêu đ­ợc thể hiện nh­ thế nào ?
Qua bài thơ Sóng, ta có thể cảm nhận đ­ược vẻ đẹp tâm hồn của ng­ười phụ nữ trong tình yêu. Ng­ười phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khao khát yêu đ­ương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Ng­ười phụ nữ ấy thủy chung, nh­ưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, để “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung. Đó là những nét mới mẻ, “hiện đại” trong tình yêu.
Tâm hồn ng­ười phụ nữ đó giàu khao khát, không yên lặng: “vì tình yêu muôn thuở - Có bao giờ đứng yên” (Thuyền và biển). Nh­ưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng, thủy chung vô hạn. Quan niệm tình yêu nh­ư vậy rất gần gũi với mọi ngư­ời và có gốc rễ trong tâm thức dân tộc.
Đề 3: Phân tích bài “Sóng” của Xuân Quỳnh
I.Đặt vấn đề
Biển và sóng là những đề tài quen thuộc của thơ ca. Mỗi nhà thơ nhìn biển theo cảm hứng riêng của mình. V.Hugo trong “Đêm đại d­ương” khi đứng tr­ước biển cả mênh mông sâu thẳm, đã nghe đư­ợc”Những tiếng ng­ười tuyệt vọng kêu la”. Puskin thì liên t­ưởng những đợt sóng thét gào với nỗi cay đắng trong tình yêu. Xuân Quỳnh tìm đ­ược những suy nghĩ tinh tế và thú vị về tình yêu qua hình ảnh những con sóng biển.
II.Giải quyết vấn đề
1.Sóng biển và tình yêu
Tác giả đã nhìn thấy sóng qua hai tính cách gần như­ đối lập nhau “dữ dội”, “ồn ào” với “êm dịu”, “lặng lẽ”. Đấy là hình ảnh thực tế về sóng biển. Như­ng nhà thơ còn hình dung ra sóng như­ thể một con ngư­ời, con ngư­ời của suy t­ư, tìm kiếm:
Dữ dội và êm dịu………. Sóng tìm ra tận bể
Từ hình ảnh sóng đi ra khơi xa rồi sóng lại vỗ vào bờ, nhà thơ liên t­ưởng tới tình yêu:
Ôi con sóng ngày x­a…………. Bồi hồi trong ngực trẻ
Đây là một liên t­ưởng thú vị, bởi vì cũng nh­ư sóng biển tự bao giờ cho tới nay, tình yêu vẫn luôn luôn là nỗi khao khát của con ng­ười. Nếu tình yêu là nỗi khát vọng của con ng­ười thì đối với tuổi trẻ, tình yêu càng trở nên thân thiết đến nỗi có thể tuổi trẻ gắn liền với tình yêu. Đấy phải chăng là điều mà Xuân Diệu từng phát biểu:
Làm sao sống đ­ược mà không yêu /Không nhớ không th­ương một kẻ nào.
2.Tình yêu của anh và em 
Cả đoạn thơ trên nói về sóng biển và tình yêu một cách chung, nh­ư một quy luật của cuộc sống. Đến đoạn thơ tiếp theo, tình yêu trở nên cụ thể, đó là tình yêu của anh và của em. ý thơ phát triển rất hợp lý, tứ thơ sâu sắc làm nên dáng nét suy t­ư trong thơ của Xuân Quỳnh:
Tr­ước muôn trùng sóng bể ……….. Từ nơi nào sóng lên
Tại sao “tr­ước muôn trùng sóng bể”, “em nghĩ về anh, em” ?
Thắc mắc về biển cả, chính là thắc mắc về tình yêu. Bởi vì tình yêu chính là thắc mắc về ng­ười mình yêu. Đó là một hiện t­ượng tâm lý thông thư­ờng trong tình yêu - yêu có nghĩa là hiểu rất rõ về ng­ười mình yêu và đồng thời ng­ười yêu vẫn là một ẩn số kỳ thú đối với mình. Cũng như­ vậy, ngư­ời đang yêu rất hiểu về tình yêu nh­ưng đồng thời vẫn luôn luôn tự hỏi không biết thế nào là tình yêu. ở đây, nhà thơ Xuân Quỳnh đã liên hệ tâm lý ấy bằng hình tư­ợng nghệ thuật hồn nhiên, dễ th­ương và gợi cảm:
Sóng bắt đầu từ gió ……… Khi nào ta yêu nhau.
Yêu, rõ ràng là thế mà đôi khi cũng không biết nó là gì. Nó cụ thể mà mơ hồ, nó gần gụi mà xa xôi, nó đơn giản mà phức tạp. Nó là con sóng. Nhà thơ lại trở về nghệ thuật nhân hóa:
Con sóng d­ưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nư­ớc
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ đ­ược
Tư­ởng t­ượng đã giúp nhà thơ lý giải một hiện t­ượng của thiên nhiên: con sóng nhớ biển nhớ bờ cho nên ngày đêm liên tục vỗ vào bờ. Đâu đây có hình ảnh ý thơ của Xuân Diệu:
Bờ đẹp đẽ  cát vàng/Thoai thoải hàng thông đứng/Như­ lặng lẽ mơ màng/Suốt ngàn năm bên sóng (Biển)
Cũng nh­ư vậy, yêu có nghĩa là nhớ. Nhớ cả trong mơ cũng như­ khi còn thức. Yêu anh có nghĩa là nghĩ đến nay, luôn luôn nghĩ đến anh:
Lòng em nghĩ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Phải chăng đó là điều mà Nguyễn Bính đã thể hiện một cách duyên dáng qua hình thức thơ dân dã của mình:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một ngư­ời chín nhớ mư­ời mong một ngư­ời
Cái nhớ của tình yêu chính là nỗi khát khao vô hạn, là nỗi nhớ không nguôi:
Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình của ta
(Xuân Diệu)
Những liên t­ưởng trên đây giúp ta thấy cách diễn tả của  Xuân Quỳnh chân thật và hồn nhiên biết chừng nào. ở thơ của Xuân Quỳnh có sự liên kết giữa cái hồn nhiên chân thật ấy với chất suy t­ư một cách tinh tế và chặt chẽ làm cho bài thơ ánh lên vẻ đẹp của một tâm hồn suy nghĩ.
Ngư­ời ta nói yêu nhau tức là cùng nhau nhìn về một h­ướng. Còn nhà thơ Xuân Quỳnh của chúng ta thì lại bảo:
Dẫu xuôi về phư­ơng Bắc
Dẫu ng­ợc về phư­ơng Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
H­ướng về anh - một ph­ương
Hình ảnh “h­ướng về anh một phư­ơng” làm ta nhớ tới mấy câu ca dao:
Quay tơ thì giữ mối tơ
Dẫu trăm nghìn mối vẫn chờ mối anh
Đó phải chăng, từ nỗi nhớ trong tình yêu, nhà thơ muốn làm nổi bật tình cảm thủy chung duy nhất của ng­ười con gái. Dù đi đâu, dù xuôi ng­ược bốn phư­ơng, tám h­ướng, thì em cũng chỉ h­ướng về một phư­ơng của anh, có anh, cho anh. Nhà thơ lại trở về với hình ảnh những con sóng để làm điểm tựa cho ý t­ưởng của mình. Bởi vì, dù có xa vời cách trở bao nhiêu, con sóng vẫn tới đ­ược bờ:
Ở ngoài kia đại dương.....
Dù muôn vời cách trở
3.Tình yêu và cuộc đời
ở trên, tác giả liên t­ưởng sóng với tình yêu. Đoạn thơ cuối cùng so sánh cuộc đời và biển cả:
Cuộc đời tuy dài thế........
Mây vẫn bay về xa
Tình yêu là một biểu hiện của cuộc đời. Tình yêu chính là cuộc sống. Cho nên đoạn thơ cuối cùng mở rộng tứ thơ - tình yêu không phải chỉ là của anh và em mà tình yêu phải hòa trong biển lớn nhà thơ gọi là Biển lớn tình yêu:
Làm sao tan đ­ược ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
III.Kết luận
Bài thơ trữ tình tình yêu như­ng không quá hời hợt, dễ dãi. Từ âm điệu cho tới tứ thơ. “Sóng” toát lên phong cách của Xuân Quỳnh. Bài thơ giúp ta hiểu sâu sắc ý nghĩa tình yêu trong cuộc đời.
D­ường như­ biển cả bao la luôn luôn thu hút cảm hứng của Xuân Qùnh. Biển là tình yêu, sóng là nỗi nhớ, và cả sóng biển sẽ giúp nhà thơ xua đi bao điều cay cực:
Biển sẽ xóa đi bao nhiêu cay cực
Nư­ớc lại dềnh trên sóng những lời ru.


5. ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA

(Thanh Thảo)

          Theo lí thuyết văn học liên văn bản, bất cứ văn bản nào cũng là một liên văn bản, không phụ thuộc vào việc tác giả của văn bản có ý thức được điều đó hay không. Đọc Đàn ghi ta của Lor-ca, có thể thấy, mỗi từ, mỗi chi tiết, hình ảnh và cả hình tượng trung tâm trong đó đều là đầu mối của một quan hệ giao tiếp nghệ thuật rộng lớn, mà nếu thiếu tri thức về các văn bản (hiểu theo nghĩa rộng) có trước đó thì độc giả không thể cảm nhận được, hiểu được ý nghĩa của chúng. Lor-ca là nhà thơ như thế nào? Đàn ghi ta của ông có cái gì đặc biệt? Vầng trăng, yên ngựa, bước chân lang thang, tiếng hát nghêu ngao, bãi bắn, tấm áo choàng bê bết đỏ, giọt nước mắt vầng trăng trong đáy giếng, lá bùa cô gái Di-gan,... là những cái gì đây ? Đó có thể là những câu hỏi thầm vang lên trong tâm trí độc giả bình thường khi tiếp nhận bài thơ. Nếu không chịu bỏ cuộc trên hành trình giải mã văn bản này và quyết tìm tới những văn bản khác đã làm nền cho nó (theo sự chỉ dẫn của các câu thơ trong bài), độc giả sẽ thực sự được đền bù. Trước mắt chúng ta lúc đó sẽ là một thế giới thi ca chói loà của thiên tài Lor-ca, là bức tranh bi tráng về thân phận người nghệ sĩ trong một thời đại biến động như bão táp, là vẻ đẹp lung linh của nghệ thuật vượt lên trên mọi sự đe doạ của các thế lực bạo tàn, hung hiểm. Từ những điều vừa thấy, nhìn ngược lại văn bản thơ đã tạo cơ hội mở rộng chân trời hiểu biết cho mình - bài Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo - ta sẽ nhận ra từ đây một sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lor-ca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp.
Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc :
                        những tiếng đàn bọt nước
                        Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
                        li-la li-la li-la
                        đi lang thang về miền đơn độc
                        với vầng trăng chếnh choáng
                        trên yên ngựa mỏi mòn
                        ...
                        tiếng ghi ta nâu
                        bầu trời cô gái ấy
                        tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
                        tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy ? - Trước hết là nhờ "đàn ghi ta của Lor-ca". Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lor-ca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lor-ca, là bản mệnh của Lor-ca. Đọc thơ Lor-ca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,... Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ An-đa-lu-xi-a, nơi ngày xưa từng được xem là "một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi" do người ả-rập dựng nên. ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta - âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài Đàn ghi ta)... Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự "trích dẫn". Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo "nguồn gốc", vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lor-ca - người mê dân ca, "chàng hát rong thời trung cổ", "con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a". Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng "song trùng" với hình tượng Lor-ca. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lor-ca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là linh hồn, và cao hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lor-ca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một "văn bản" khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 - cái "văn bản" đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý :    Tây Ban Nha
                        hát nghêu ngao
                        bỗng kinh hoàng
                        áo choàng bê bết đỏ
                        Lor-ca bị điệu về bãi bắn
                        chàng đi như người mộng du
                        ...
                        tiếng ghi ta ròng ròng
                        máu chảy
Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lor-ca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác với nhau của các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lor-ca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lor-ca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lor-ca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tantiếng ghi ta ròng ròng - máu chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn. Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lor-ca và là sinh quyển văn hoá, sinh quyển chính trị - xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lor-ca. Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau : áo choàng bê bết đỏ ­- tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này). Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca (mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca An-đa-lu-xi-a) như hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành "vấn đề" trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhoè đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế. Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lor-ca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la chứ không phải là cái gì khác. Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật phương Tây chăng ? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ ?... Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng !
            Ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lor-ca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ :
                        không ai chôn cất tiếng đàn
                        tiếng đàn như cỏ mọc hoang
                        giọt nước mắt vầng trăng
                        long lanh đáy giếng
                        đường chỉ tay đã đứt
                        dòng sông rộng vô cùng
                        Lor-ca bơi sang ngang
                        trên chiếc ghi ta màu bạc
                        chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
                        vào xoáy nước
                        chàng ném trái tim mình
                        vào lặng yên bất chợt
                        li-la li-la li-la...
            Câu thơ không ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca trong bài Ghi nhớ - lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ "chân dung" hay "ai điệu", nhằm làm nổi bật những tứ thơ "mới" mang tính chất "ăn theo". Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lor-ca - một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở - đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí : không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được ! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai chôn được ! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết.
Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù "nội dung") mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo lô gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn,... Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã "khôn dần lên", sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lor-ca đang bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại...
Trên thực tế, cái chết của Lor-ca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Frăng-cô gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lor-ca không phải là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong định mệnh của họ ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật gọn nghẽ, "nhẹ nhõm" và "mênh mang" (ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lor-ca, khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó "chìm lỉm" (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt - cái lặng yên của sự "đốn ngộ", cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lor-ca vẫn sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên núi Sọ. Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo[1] !...
Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều "văn bản" khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được "tắm" trong một "dung môi" cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết ? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư ? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la li-la li-la...
Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, "lời" vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc - cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan - để thấu nhập bề sâu, "bề xa" của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy Đàn ghi ta của Lor-ca vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lor-ca -. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch          

D. MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH THỂ LOẠI KÍ, TUỲ BÚT:
1. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - Nguyễn Tuân

Kiến thức cơ bản:
I. Tác giả:
- Nguyễn Tuân (1910-1987) quê ở làng Nhân Mục, thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân , Hà Nội. Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Ông là người tính tình phóng khoáng và giàu lòng yêu nước.
-Nguyễn Tuân cầm bút từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX. Ông để lại một sự nghiệp văn học vô cùng phong phú, độc dáo và đầy tài hoa. Với những đóng góp lớn cho văn học nghệ thuật, năm 1996, Nguyễn Tuân được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Các tác phẩm tiêu biểu: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi...
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảch sáng tác: Người lái đò Sông Đà là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 tuỳ bút của Nguyễn Tuân in trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960.
Lần xuất bản đầu tiên, bài này có tên là Sông Đà, năm 1982 khi cho in lại trong tập 2 bộ Tuyển tập Nguyễn Tuân, tác giả có sửa đổi tên thành “Người lái đò sông Đà”
2. Nội dung:
2.1. Con sông Đà d­ưới ngòi bút Nguyễn Tuân trở thành một sinh thể vừa hung bạo vừa trữ tình.
     a. Sông Đà - con sông hung bạo, nham hiểm:  Nhà văn đã không quản ngại công phu quan sát, tìm hiểu kĩ càng, vận dụng biện pháp nhân hoá để miêu tả sự hung bạo ấy trên nhiều dáng vẻ:lúc thể hiện trong phạm vi một lòng sông hẹp, như chiếc yết hầu bị đá bờ sông chẹt cứng; khi thì lại hiện ra trong khung cảnh mênh mông hàng cây số của một thế giới đầy gió gùn ghè, đá giăng đến chân trời và sóng bọt tung trắng xoá; khi thì mặt thác với dòng nước như hùm beo lồng lộn; khi thì là những hòn đá sông lập lờ cạm bẫy, lúc lại là những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu. Đến âm thanh của sóng thác sông Đà cũng luôn luôn thay đổi: mới oán trách nỉ non đã chuyển sang khiêu khích, chế nhạo rồi đột ngột rống lên, thét gầm lên...Bên cạnh biện pháp nghệ thuật nhân hoá, nhà văn còn mượn ở các ngành, các bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để làm nên hàng loạt liên tưởng, so sánh, tưởng tượng rất kì lạ , bất ngờ như đoạn miêu tả cái hút nước quãng Tà Mường Vát “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” lại “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” hay như sự tưởng tượng xuất thần của nhà văn “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày...”
  Nguyễn Tuân nói nhiều đến sự hung bạo của một con sông Đà đầy đá nổi, đá chìm và thác dữ. Nhưng ông vẫn  cho chúng ta nhận thấy, bên cạnh, và cả bên trong sự hung bạo ấy, hình ảnh con sông vẫn nổi bật lên như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
       b. Sông Đà- một dòng chảy trữ tình
Dòng Đà giang chỉ thực sự trữ tình  khi đã chảy qua Chợ Bờ,và đã để lại những hòn đá thác xa xôi trên thượng nguồn Tây Bắc.
      - Hình dáng: Sông Đà mềm mại, duyên dáng như một thiếu nữ  kiều diễm: tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình..
- Màu sắc: biến đổi theo mùa rất sinh động. Mùa Xuân nước sông Đà xanh  màu xanh ngọc bích, rồi cứ mỗi độ thu về nó lại “lừ lừ chín đỏ
- Không gian thơ mộng mơ màng
·        lặng tờ / tịnh không một bóng người
·        bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, phảng phất nỗi niềm cổ tích…
- Cảnh vật: ngô non/ cỏ gianh đồi búp đãm sương đêm/ đàn hươu thơ ngộ/ đàn cá vọt lên bụng trắng như thoi
Tóm lại: Con sông mang vẻ đẹp thơ mộng, kì thú, tự nhiên như chẳng vướng trần, khơi nhiều cảm xúc cho con người -> như một cố nhân.
* Kết luận:
- Đặc điểm sông Đà: vừa hung bạo, nham hiểm vừa thơ mộng, trữ tình.
- Kết tinh phong cách Nguyễn Tuân: Khám phá sông Đà bằng kiến thức của nhiều lĩnh vực; tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ. Có thể thấy nhà văn đã sử dụng một loạt biện pháp nghệ thuật để mô tả thiên nhiên: nới rộng cấu trúc câu văn, nghệ thuật so sánh độc đáo, biện pháp nhân hoá tài tình. Đặc biệt cách liên tư­ởng đẹp, bất ngờ, táo bạo cùng với nhiều chi tiết gợi cảm.
- Con người nhà văn: tình yêu với thiên nhiên, non sông đất nước.
2.2. Hình tư­ợng ông lái đò :
Người lái đò là một người lao động, nhưng là nghệ sĩ trong lao động, hơn nữa là một dũng tướng trong cuộc thuỷ chiến thường xuyên với thác nước sông Đà                             -        - Đó là một con người bình thường, hiền lành với những nét phát hoạ: “cái đầu bạc...cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tay ông lêu nghêu như một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại...”
-.Đó là một con người dũng cảm, say mê sông nước, say mê những cảm giác mạnh:
+ Trên dòng thác dữ, ông đò hiện lên hiên ngang, m­ưu trí, ngoan cư­ờng. “Ông đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, “ông đã thuộc lòng con sông như­ lòng bàn tay mình”. Thật là một nghệ sĩ sông nư­ớc.
+ Ông đò đối đầu với thác ghềnh hung bạo mà bình tĩnh, ung dung. Xử lí các tình huống nguy hiểm vừa dũng cảm, quyết liệt, vừa thông minh, táo bạo… Vậy mà sau khi v­ượt thác, ngừng chèo, lại ung dung “đốt lửa trong hang đá, nư­ớng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ…”
- L­ưu ý những nét riêng của ông lái đò bị tỉnh l­ược gần hết: không tên, không tiểu sử, rất ít nét ngoại hình… Điều này không phải ngẫu nhiên. Nhà văn muốn dựng lên một chân dung vô danh để chứng tỏ rằng những con ng­ười như­ thế không phải là đặc biệt, có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trong cuộc sống hàng ngày. Khi chở đò , ông là nhà nghệ sĩ, là dũng tướng tài ba ( Đ­ưa con thuyền vư­ợt dòng sông dữ là cả một nghệ thuật cao c­ường, đầy tài hoa, trí dũng. Chỉ một chút lỡ tay, loá mắt là phải trả giá bằng mạng sống của mình) .Kết thúc công việc ông lại là người bình thường  Vẻ đẹp và chủ nghĩa anh hùng được thể hiện trong con người bình thường, làm công việc bình thường là chở đò trên sông.Điều đáng chú ý là con người bình thường ấy lại được ví với chất vàng mười đẹp đẽ và quý báu.
3. Nghệ thuật:
   -  Đặc điểm nổi bật của tuỳ bút Nguyễn Tuân là uyên bác và tài hoa.Ông vận dụng kiến thức lịch sử, địa lí, hội hoạ, điện ảnh, quân sự thể thao...Ông luôn có cảm hứng đặc biệt trước những hiện tượng phi thường , gây cảm giác mạnh, say mê khá phá và thưởng thức cái đẹp.
   -  Nhà văn dùng các biện pháp nhân hoá, so sánh, biến hoá trong cách đặt câu, dùng từ là cho ngôn ngữ trong tác phẩm vừa có giá trị tạo hình vừa gợi cảm phong phú.
3. Kết luận: Ng­ười lái đò sông Đà chính  là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ . Đấy chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhâ dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung.
Câu hỏi:
1/  Nguyến Tuân đã phát hiện ra những đặc điểm nào của con sông Đà? Những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc được Nguyễn Tuân  vận dụng để làm nổi bật những phát hiện của mình.
2) Phân tích hình ảnh người lái đò trong “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân).
3) Nguyễn Tuân đã tạo hồn và thơ cho con sông Đà.
           Chứng minh nhận định trên.

2. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
                                                                (trích)    Hoàng Phủ Ngọc Tường

A.Kiến thức cơ bản:
I.  Tác giả:Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Tiểu sử: + Sinh 1937 tại TP. Huế
                 + Quê gốc ở Quảng trị, sống, học tập và hoạt động cách mạng ở Huế -> cuộc  đời tác giả gắn liền với Huế nên tình cảm, tâm hồn thấm đẫm nền văn hoá của mảnh đất này.
- Sự nghiệp văn học:
+ Phong cách nghệ thuật:
* Là cây bút uyên bác, giàu chất  trí tuệ.
* Tài hoa, trí tưởng tượng phong phú lãng mạn đậm chất thơ.
* Lối viết hướng nội, xúc tích, có chiều sâu văn hoá, cảm hứng nhân văn.
+ Tác phẩm chính: Ngôi sao trên đỉnh Phu văn Lâu(1971), Rất nhiều ánh lửa(1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông?(1986)...
II. Tác phẩm
             1- Hoàn cảnh ra đời:Bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? viết năm 1981, in trong tập sách cùng tên .Bài bút kí có ba phần, đoạn trích nằm ở phần thứ nhất của tác phẩm.

2 Nội dung:
      
1. Sông Hương  vùng thượng nguồn
      -Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ, Sông Hương tựa như “một bản tình ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, lúc “mãnh liệt vượt qua ghềnh thác”, khi “ cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu”, lúc “dịu dàng say đắm giữa những  dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
       - Bằng biện pháp nhân hoá sông Hương hiện ra tựa như “cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại” với một “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”, dòng sông như một con người mà phần tâm hồn sâu thẳm của nó đã đóng kín lại ở của rừng.
 à: sông Hương vùng thượng lưu toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính.
2. Sông Hương nhìn trong mối quan hệ với kinh thành Huế:
- Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của đất cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
-Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét tài hoa và lịch lãm trong lối hành văn của tác giả. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “ cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục ”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “’ vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang ”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”...
Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “ những phản quan nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng , chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía Tây nam thành phố và mang “vẻ đẹp trầm mặc” khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “ tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà ”...
Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.
    * Nhận xét:  Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của HPNT như 1 cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu theo tiếng gọi vang vọng từ trái tim. Với NT so sánh cân đối, hài hoà đậm chất thơ, với sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng, nhà văn đã khắc hoạ được vẻ đẹp dòng sông huyền ảo, lung linh sắc màu, người đọc đặc biệt ấn tượng về vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính của Sông Hương gắn với thành quán lăng tẩm của vua chúa thủa trước
3. Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế:
Như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương  “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “ kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây nam- đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “ vâng”không nói ra của tình yêu ”.Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình , sông Hương cũng giống như sông Xen của Pa -ri, sông Đa- nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Lê-nin-grát ...nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận dưới nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu lắng trữ tình và , với cái nhìn say đắm của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ.Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa maù xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi như sực nhớ lại điều gì chưa kịp nói, nó đột nhột đổi dòng, rẽ ngoặc sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ ”. Cũng theo tác giả, khúc quan thật bất ngờ đó , tựa như một “ nỗi vương vấn”,và dường như còn có cả  “một chút lẳnglơ kín đáo của tình yêu ”...
.- Cuộc gặp gỡ giữa Sông Hương – Huế

Huế
Sông Hương
+ Cầu Tràng Tiền bằng vành trăng non in gần trên nền trời.
à một trong những biểu tượng của Huế  như mơ màng chờ đợi, như vẫy gọi dòng sông.
+ Những lâu đài của đất cố đô soi bóng xuống dòng sông xanh biếc.
+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ = 1 tiếng vang vọng nói ra của tgiả.
à Vẻ e thẹn, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng.

+ Sông Hương và Huế hoà vào làm 1, sông Hương làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư sâu lắng của Sông Hương.
+ Sông Hương giảm hắn lưu tốc xuôi đi thực chậm… yên tĩnh, khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
Nhận xét: Cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tình yêu. Sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá, phát hiện từ góc độ tâm trạng: Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn của tình yêu sau một hành trình dài trở nên vui tươi và mềm mại. Sông Hương qua nghệ thuật so sánh đầy mới lạ, bất ngờ trở nên có linh hồn, sự sống như một cô gái si tình đang say đắm trong tình yêu.
- Tạm biệt Huế để ra đi
Sông Hương
Huế
+ Rời khỏi kinh thành, Sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu 1 lần cuối.
+ Quanh năm mơ màng trong sương khói và biêng biếc màu xanh của tre trúc, vườn cau.
+ Thị trấn bao quanh là nơi Huế dõi theo 10 dặm trường đình.

   Nhận xét: Sự lưu luyến, bịn rịn của đôi tình nhân trong chia biệt. Gợi liên tưởng  đến mối tình Kim Trọng- Thuý Kiều. Sông Hương giống như nàng Kiều trong đêm tình tự với chàng Kim với nỗi vấn vương, lẳng lơ, kín đáo của tình yêu, như tấm lòng chung tình của người dân nơi Châu Hoá với quê hương xứ sở.
4. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc
 Dòng S.Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang  từ thuở còn là dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ ” vào thế kỉ XVIII; “ nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với Cách mạng tháng tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này...
àSông Hương là dòng sông có bề dày lịch sử như một người con gái anh hùng, khi tổ quốc gọi nó tự biết hiến đời mình làm một chiến công. Sông Hương là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.
à Sử thi mà  trữ tình, bản hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng tươi mát. Đó là nét độc đáo của xứ Huế, của Sông Hương được tác giả khám phá và khắc hoạ từ góc độ lịch sử.-
Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế
 5 .Sông Hương với thơ ca vơí đời thường
        - Dòng sông âm nhạc: “ là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc cổ điển của Huế, là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
         - Dòng sông thi ca: một dòng sông thơ ca không lặp lại mình
+ Là vẻ đẹp mơ màng “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu
-> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các thi nhân.
+ Màn sương khói trên Sông Hương như màu áo điền lục, một sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng.
+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như một nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: “rất dịu dàng và rất trầm tư…”
 - Dòng sông đời thường:sau những biến cố lịch sử, “nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.
6. Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Bài kí mở đầu và kết luận bằng một câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
   - Mang nghĩa hỏi: Chính nội dung bài kí là câu trả lời, một câu trả lời dài như một bài kí ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên cũng rất đẹp và phù hợp với nó: Sông Hương.
   - Mang tính chất biểu cảm.
+ Là cái cớ để nhà văn đi vào miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn với mảnh đất cố đô cổ kính tươi đẹp.
+ Thể hiện tình cảm ngỡ ngàng ngưỡng mộ thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả với dòng sông Hương, thành phố Huế thân yêu. Vì quá yêu mà bật thành câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
7. Hình tượng nhân vật tôi trong tác phẩm
      - Một trí thức gắn bó và có tình yêu thiết tha đến say đắm đối với cảnh và người nơi xứ Huế.
       -Nhân vật đã huy động tổng hợp vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, địa lí, lịch sử và văn chương để miêu tả và cảm nhận những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông
       -Nhân vật tôi nhìn dòng sông từ nhiều điểm nhìn khác nhau: thượng nguồn,trong thành phố Huế, ra ngoại vi thành phố; từ góc độ địa lí, văn hoá, lịch sử,...kết hợp, đan xen điểm nhìn không gian và thời gian...
        - Giọng điệu của nhân vật là giọng thủ thỉ, tâm tình, say đắm mà tỉnh táo, tự tin nhưng không áp đặt, sắc sảo mà giàu cảm xúc....
III- TỔNG KẾT.
- Cảm nhận và hiểu được vẻ đẹp của Huế, của tâm hốn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của HPNT về dòng sông Hương-> HPNT xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điểm sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
- Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.
B. Câu hỏi:
1/ Sông Hươngvùng thượng nguồn được miêu tả như thế nào? Nét độc đáo của sự miêu tả ấy?
2/ Sông Hương khi gặp kinh thành Huế có nét gì đặc biệt? Tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật gì để thể hiện rõ sự đặc biệt ấy?
3/ Ngoài mhững vẻ đẹp của sông Hương như đã thấy, tác giả còn phát hiện sông Hương có những vẻ đẹp nào khác?
4/ Cảm nhận của anh ( chị )về nhân vật tôi trong tác phẩm ( vốn tri thức văn hoá tổng hợp, tình cảm với Huế, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật)?
5/ So sánh cách tiếp cận sông Đà của Nguyễn Tuân với cách tiếp cận sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường..


E. MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI:

       1. VỢ CHỒNG A PHỦ
Tô Hoài
         
A.. Kiến thức cơ bản
I. Tác giả :
- Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, người Hà Nội, sinh năm 1920. Là một nhà văn có nguồn sáng tạo to lớn. Có trên 100 tác phẩm. Trước cách mạng, nổi tiếng với truyện “Dế mèn phiêu lưu ký”. Sau năm 1945, có “Truyện Tây Bắc”, “Mười năm”, “Miền Tây”, “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ”, “Tự truyện”…
- Sáng tác của Tô Hoài thể hiện vốn hiểu biết phong phú về đời sống và phong tục, chất tạo hình và chất thơ qua miêu tả và kể chuyện đầy thú vị. Là một nhà văn viết truyện về miền núi rất thành công.
- Tô Hoài là nhà văn có nhiều đóng góp cho văn xuôi Việt Nam hiện đại.
II. Tác phẩm:
1.      Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ :
-.Năm 1952, Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Với chuyến đi dài 8 tháng ấy, Tô Hoài đã sống cùng đồng bào các dân tộc : Mèo, Thái, Dao, Mường ở nhiều vùng ở đây. Chuyến đi ấy đã giúp ông hiểu rõ về cuộc sống và con người miền Núi đã để lại cho ông những kỉ niệm khó quên và tình cảm thắm thiết đối với đất nước và con người Tây Bắc.
         Truyện “Tây Bắc” là kết quả của chuyến đi đó, là tác phẩm văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp .
Tác phẩm này được tặng giải I của hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
“Vợ Chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc được rút ra từ tập truyện “Tây Bắc”
- Thông qua số phận của Mị và A Phủ, tác giả thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng con người và ngợi ca ý nghĩa nhân đạo của sự nghiệp giải phóng con người thoát khỏi tối tăm và áp bức.
2.Nội dung cơ bản:
 a.Tác phẩm đã miêu tả được những thân phận nô lệ dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi (giá trị hiện thực):      
*) Thông qua cuộc đời nhân vật  Mị :
- Mị là nạn nhân của sự vùi dập về thể xác: (bị bóc lột sức lao động thậm tệ; bị đánh đập, bị trói và bỏ đói bất cứ lúc nào…)
- Mị là nạn nhân của sự vùi dập về tinh thần : (căn buồng Mị ở tối tăm, chỉ thông ra thế giới bên ngoài qua một cửa sổ “lỗ vuông bằng bàn tay”; Mị sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”…)
*) Thông qua cuộc đời A Phủ :
-  Là chàng trai khỏe mạnh, giỏi giang, con gái trong làng nhiều người mê.
- Vì không chịu được sự bất công cũng như thái độ hống hách, cậy quyền thế của A Sử - con trai thống lý Pá Tra, A Phủ đã đánh A Sử. A Phủ bị bắt, phải vay nhà thống lý một trăm đồng bạc hoa xòe để nộp vạ cho làng và trở thành người ở trừ nợ.
- Vì để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị thống lý Pá Tra trói đứng và bỏ đói đến gần chết. 
            -> Thân phận con người không bằng con vật.
b. Tác phẩm miêu tả sức sống tiềm tàng của người dân miền núi (giá trị nhân đạo):
*) Qua nhân vật Mị :
- Dù bị áp chế về cả thể xác và tinh thần, tâm hồn Mị vẫn không hoàn toàn giá lạnh. Bên trong cái dáng lùi  lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, Tô Hoài vẫn nhận ra một sức sống tiềm tàng trong con người Mị  mà khi có đủ điều kiện nó sẽ vùng lên để tìm lại cuộc sống đích thực cho mình.
- Sức sống của nhân vật Mị được miêu tả trực tiếp trong tác phẩm:
            + Trong lần định ăn nắm lá ngón tự tử : Mị định chết vì ý thức được cuộc sống tủi nhục, vô nghĩa của mình.
+ Trong đêm tình mùa xuân : Điều kiện có tác dụng trực tiếp cho việc biểu hiện sức sống của Mị là không gian của đêm tình mùa xuân, hơi rượu và tiếng sáo. Sức sống của Mị thể hiện trong cảm xúc, trong sự hồi tưởng và hành động. Sức sống tiềm tàng thể hiện ngay cả khi bị trói.
            + Trong đêm cởi trói cho A Phủ : Từ sự đồng cảm với A Phủ (khi nhìn thấy  hai dòng nước mắt của A Phủ khi bị trói), Mị nhận ra gia đình thống lý Pá Tra độc ác thật, trói người cho đến chết và Mị đã cắt dây mây cởi trói cho A Phủ.          
- Kết quả của sức sống tiềm tàng: Mị cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn hỏi Hồng Ngài đến với cuộc sống tự do.
             *) Qua nhân vật A Phủ :
- Nếu như trong phần đầu nhà văn chú ý miêu tả Mị thì ở phần sau, khi hai người chạy thoát khỏi Hồng Ngài và nên vợ nên chồng, nhà văn lại quan tâm miêu tả quá trình giác ngộ cách mạng của A Phủ nhiều hơn.
- Thoát khỏi gông cùm của bọn phong kiến, A Phủ lại đối đầu với bọn thực dân. Dần dần, anh ý thức rõ hơn về mình và tội ác của thực dân Pháp. Từ căm thù thực dân, A Phủ đã đến với A Châu, đến với cách mạng bằng một tấm lòng thành thật, trong sáng...Và nhiều lúc chính anh là người nâng đỡ tinh thần cho Mị.
- A Phủ dã khẳng định bản thân mình bằng chính hành động đấu tranh cách mạng.
c. So sánh tính cách và số phận của Mỵ và A Phủ.
*) Sự giống nhau:
- Về tính cách: Cả hai đều là những người lao động, có những phẩm chất tốt đẹp, cả hai đều còn trẻ.
- Về số phận:
+ Cả hai đều là những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột và cuối cùng, kẻ thì thành con dâu gạt nợ, kẻ thì thành đứa ở gạt nợ cho nhà thống lý Pa Tra.
+ Sau một thời gian bị vùi dập, cả hai đều an phận, chấp nhận cuộc sống tôi đòi. Nhưng cuối cùng, cả hai đều đi từ đấu tranh tự phát, tự giải phóng cho mình và cuối cùng đi đến đấu tranh tự giác.
*) Sự khác nhau:
- Về tính cách :
+ Mị là cô gái có tâm hồn nhạy cảm (nhắc lại những vấn đề về sự hồi sinh trong tâm hồn cô trong đêm xuân và việc cởi trói cho A Phủ.)
+  Phủ cứng cỏi, gan dạ, ngay thẳng (với A Phủ, tác giả chủ yếu miêu tả hành động hơn là biểu hiện nội tâm)
- Về số phận.
+  Mỵ tiêu biểu cho những người phụ nữ miền núi, thân phận thấp hơn cả con ngựa trong nhà thống lý
+ A Phủ tiêu biểu cho người thanh niên nghèo miền núi, là công cụ lao động cho những kẻ bóc lột.
d. Nghệ thuật :
- Thành công tiêu biểu là đã miêu tả một cách logic quá trình phát triển nội tâm của nhân vật, đặc biệt là tính cách nhân vật Mị.
- Là một cây bút có biệt tài trong việc tả cảnh vật, thiên nhiên. Thiên nhiên trong tác phẩm sống động, có hồn, khêu gợi, góp phần đắc lực cho việc biểu hiện nội tâm nhân vật.
- Sử dụng thành thạo lời nửa trực tiếp, đó là lời kể của tác giả nhưng người đọc vẫn cảm nhận như chính lời của nhân vật đang tự bộc lộ “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”..., có nhiều chi tiết giàu chất thơ.
3. Kết luận:
- Truyện có giá trị nhân đạo sâu sắc : Phát hiện và ngợi ca sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người. Giá trị nhân đạo của “Vợ chồng A Phủ” gắn liền với đường lối cách mạng và chính sách dân tộc của Đảng : Giải phóng cho những người lao động bị áp bức bóc lột, đem đến cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Qua hai nhân vật Mỵ và A Phủ, tác phẩm cho thấy : Xã hội phong kiến miền núi dù có tàn bạo đến đâu cũng không giam hãm được khát vọng sống của con người. 
B. CÂU HỎI THAM KHẢO
Câu1: Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng Aphủ của Tô Hoài?
Câu 2: Hoàn cảnh sáng tác tác phẩm Vợ chồng Aphủ ?
Câu 3:  Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài để thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
1. Phân tích nhân vật:
 -Mị trước khi làm dâu nhà thống lý: Cô gái người Mèo xinh đẹp, yêu đời, có tài thổi sáo, khao khát yêu và đã được yêu.
 - Mị, con dâu gạt nợ nhà thống lý: Người đàn bà sống nhẫn nhục trong tăm tối =>Danh nghĩa là con dâu song kì thực là nô lệ, Mị là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần
 - Sức sống mãnh liệt của Mị:
            + Lần 1: Mới bị bắt về làm dâu=> định tìm đến cái chết vì không chấp nhận sống nô lệ
            + Lần 2: Trong đêm tình mùa xuân=> Mị muốn đi chơi
             + Lần 3: Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị đã cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ=> hành động bất ngờ, bột phát thể hiện tinh thần phản kháng và khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng.
- Mị đến với cách mạng như là một tất yếu của quy luật có áp bức có đấu tranh, từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác
2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua nhân vật Mị:
- Nhân đạo là thương người vì con người mà lên tiếng
- Câu chuyện đau buồn của Mị không phải là chuyện riêng của Mị mà tiêu biểu cho người phụ nữ miền núi trong chế độ phong kiến- thực dân
- Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đẹp tiêu biểu cho khát vọng sống khát vọng hạnh phúc của người dân miền núi và hành trình tất yếu tìm đến cách mạng của họ
=> Truyện mang giá trị nhân đạo sâu sắc: xót xa với những số phận bất hạnh, ngợi ca những tâm hồn tuổi trẻ yêu đời trong sáng, bất bình với những tội ác man rợ của bọn quan lại miền núi và đồng tình với khát vọng giải phóng của người dân miền núi với chế độ thực dân phong kiến xưa
Đề 2: Phân tích Nhân vật MỴ :
              a/ Là cô gái trẻ , đẹp , tài hoa :
Thổi sáo giỏi, thổi kèn cũng hay như thổi sáo .
Có bao nhiêu người mê, ngày đêm đi theo Mỵ  “đứng nhẵn vách buồng nhà Mỵ”
è   Mỵ có đủ phẩm  chất được  sống hạnh phúc . Tâm hồn Mỵ đầy ắp hạnh phúc , ước mơ.
               b/ Là cô gái có số phận bất hạnh :
        Vì  bố mẹ không trả nổi tiền thống lí Pá Tra – Mỵ phải trở thành con dâu gạt nợ chịu tủi nhục , cực khổ .
Bị đối xử chẳng khác nào nô lệ , bị đánh đập , trói đứng cả đêm , suốt ngày quần quật làm việc      à Mỵ tưởng mình là con trâu , con ngựa .
   Mất hết cảm giác, thậm chí mất hết ý thức sống, sống mà như đã chết“lúc nào mặt cũng buồn rười rượi”.
   Không mong đợi điều gì , cũng chẵng còn ý niệm về thời gian , không gian . “suốt ngày lùi lũi như con rùa xó cửa” à  thân phận nghèo khổ bị áp bức . Cái buồng Mỵ ở kín mít ,cửa sổ “lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng ,không biết là sương hay nắng”  à căn buồng Mỵ gợi không khí nhà giam .
            c/ Sức sống tiềm tàng , khát vọng hạnh phúc của MỴ :
    -   Lần 1 : lúc mới làm con dâu gạt nợ .
*  Mỵ định ăn lá ngón tự tử ( ý thức về đời sống tủi nhục của mình) à không chấp nhân cuộc sống đó .
*   Tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát , là khẳng định lòng ham sống ,khát vọng tự do của mình
             -Lần 2 : trong đêm tình mùa xuân .
 Lòng ham sống ,niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi được đánh thức .
            Tiếng sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những ngày tháng tươi đẹp trong quá khứ .Mỵ lấy rượu ra uống “ ừng ực từng bát một” –như uống những khao khát , ước mơ ,căm hận vào lòng . Mỵ cảm thấy “phơi phới đến góc nhà lấy ống mỡ , xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”à thắp sáng niềm tin ,giã từ bóng tối . Mỵ lấy váy áo định đi chơi nhưng ngay lập tức bị A Sử ûtrói vào cột nhà, nhưng vẫn thả hồn theo cuộc vui .
 -Lần 3 : cởi trói cho A Phủ .
            Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị hành hạ có nguy cơ chết , lúc đầu Mỵ không quan tâm “dù A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng vậy thôi”.
 Nhưng thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại” của A Phủ. Mỵ xúc động , thương mình, thương người .   à Mỵ quyết định cởi trói A Phủ.
 Đứng lặn trong bóng tối , rồi chạy theo A Phủ cùng trốn khỏi Hồng Ngài à hành động mang tính tự phát . 
è    Quá trình phát triển tính cách phong phú , phức tạp . Cởi trói cho A Phủ cũng chính là cởi trói cho cuộc đời mình .  Chấp nhận cuộc sống trâu ngựa và khao khát được sống cuộc sống con người , nhẩn nhục và phản kháng là hai mặt mâu thuẫn trong con người Mỵ ,  Cuối cùng tinh thần phản kháng , khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng .
     Giá trị tư tưởng , nhân đạo của tác phẩm :
             - Phản ánh cuộc sống cơ cực , bị đè nén bởi áp bức nặng nề của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn phong kiến câu kết thực dân Pháp .
           - Mở ra lối thoát cho nhân vật vùng lên làm CM, xóa bỏ chế độ PK – gắn cuộc đấu tranh tự giải phóng cá nhân với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp , giải phóng dân tộc.
               + Nghệ thuật :
    Đậm đà màu sắc dân tộc   .
-                 Khắc họa bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ  thơ mộng với phong tục độc đáo,  hình ảnh người dân TB hồn nhiên chân thật .
-         Thành công trong việc xây dựng nhân vật , diễn biến tâm lý phức tạp .
* Qua việc khắc họa nhân vật Mỵ , Tô Hoài tố cáo chế đ6ï PK miền núi ,ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người vùng cao nói chung ,của thanh niên Mèo nói riêng .Họ biết yêu cái đẹp , cái lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình .
            * Sức sống của nhân vật Mỵ được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình , độc đáo . Từ một con người dường như bị mất hết quyền làm người , tâm hồn Mỵ dường như không còn tồn tại . Thế nhưng , với một nghị lực phi thường , một lòng ham sống mãnh liệt ,Mỵ đã tìm thấy` hạnh phúc cho bản thân , dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua.  Nguyễn Khải đã từng triết lý “hạnh phúc bắt nguồn từ những hi sinh gian khổ . Ở đời không co ùcon đường cùng mà chỉ có những ranh giới . Điều quan trọng là phải có sức mạnh để vượt qua thử thách đó”.

 2. VỢ NHẶT
Kim Lân
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
 I. TÁC GIẢ:
- Kim Lân (1920-2007), tên khai sinh là Nguyễn văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn , tỉnh Bắc Ninh.
-  Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân.
- Tác phẩm chính:Nên vợ nên chồng( tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí( tập truyện ngắn, 1962).
II. TÁC PHẨM:
1.Hoàn cảnh sáng tác
         Đầu năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, nhân dân ta lâm vào tình thế một cổ hai tròng. Ở miền Bắc nước ta. Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, trong khi đó, Pháp tăng thuế ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân ta.
          Đến năm 1945 hơn triệu người Việt Nam chết đói. Điều này đã làm xúc động giới văn nghệ sĩ, Kim Lân đã đóng góp thành công một truyện ngắn, đó là “Vợ Nhặt”.
Lúc đầu,truyện có tên là”Xóm ngụ cư”,hòa bình lập lại 1954, Kim Lân sửa lại in chính thức“Vợ Nhặt”.
II.  Nội dung cơ bản :
              a/ Hoàn cảnh túng đói , khốn khổ của người dân ngụ cư :
             Bức tranh thảm đạm về nạn đói năm 1945. Cái đói đã làm xóm ngụ cư vốn nghèo khổ giờ đây càng xơ xác, thê lương .
Cái đói làm cho bọn trẻ “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích”.Cái đói hành hạ cả xóm khiến nhiều người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp các lều chợ”. Cảnh tang tóc bao trùm lên xóm ngụ cư   “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ , đi làm đồngkhông gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”ï.Tràng kéo xe thóc tạm sống qua ngày , nghèo không thể có vợ .Người vợ nhặt  lượm từng hạt thóc rơi để có miếng ăn mỗi ngày .
Tâm trạng lo âu, sợ hãi cái đói, cái chết của người dân . Hình ảnh thê lương của người dân Ngụ Cư là bằng chứng tố cáo tội ác tày trời của Pháp – Nhật. Chúng đã dẩy nhân dân ta vào vòng cùng khổ, chết chóc“Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”.
b/ Người dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết mà vui, hi vọng , khao khát vươn lên trên cái chết , hướng đến sự sống .
         Người vợ nhặt  : Người phụ nữ đói rách được một bữa no quyết định theo Tràng về làm vợ “cái đói làm con người biến đổi nhanh” . Tội nghiệp hơn chị theo Tràng về làm vợ không một nghi thức nào .
       Tràng  : một con người có ngoại hình xoàng xĩnh , cách nói năng thô kệch, cộc cằn . Nhưng anh có tấm lòng nhân hậu ,cưu mang người vợ nhặt , giúp người phụ nữ sống, chủ yếu là “trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy”. .
Bà cụ Tứ : vượt lên nỗi xót xa , tủi phận để chấp nhận nàng dâu .
Tràng cảm thấy vui , thấy mới lạ , bối rối khi có vợ, thấy có trách nhiệm, tình cảm gắn bó với gia đình “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với caí nhà của hắn lạ lùng”.
Người vợ nhặt đảm đang, vén khéo việc nhà, lo cho gia đình .
Bà cụ Tứ vui rạng rỡ, quét dọn nhà cửa, hi vọng làm ăn khá, chuẩn bị bữa ăn sáng chu đáo, phát họa chuyện tương lai “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Hình ảnh cách mạng xa mà gần, trừu tượng mà cụ thể. Hình ảnh đó làm cho họ suy nghĩ, gây cho họ xúc động, tạo cho họ niềm tin . Hiện thực khắc nghiệt vẫn còn đó, tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập, nhưng trong ý nghĩ của Tràng  “Vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.
c/Đăc sắc nghệ thuật:
- Tình huống truyện độc đáo, đặc biệt:Trong khi nạn đói đe doạ tính mạng mọi người, cái đói trùm bóng đen lên cả xóm thì Tràng “nhặt ”được vợ. Điều đó làm cho mọi người ngạc nhiên, bà cụ Tứ ngạc nhiên và cả Tràng cũng thấy bối rối cho chính mình.Rồi cả ba con người cùng khổ đó đã thay đổi như có phép lạ.Bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa buồn; người vợ nhặt trở nên hiền hậu đúng mực; Tràng thì thấy thương yêu, gắn bó hơn với cái nhà của mình.
- Phân tích tâm lí của tác giả rất sâu sắc, đặc biệt là tâm trạng của bà cụ Tứ. Ngôn ngữ nông thôn được thể hiện một cách nhuần nhị.

III Kết Luận:
Vợ Nhặt  là tác phẩm ca ngợi tình yêu cuộc sống ngay giữa mùa chết chóc .Khẳng định vai trò của cách mạng tháng Tám đối với cuộc đời của bao kiếp lầm than
     B. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
  1/. Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân?
  2/.Từ những tình tiết chính và tên truyện Vợ nhặt, anh (chị ) nhận xét gì về số    phận người phụ nữ nông thôn trước cách mạng qua nhan vật vợ Tràng?
   3/.  Nêu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ nhặt”. Vì sao có thể nói rằng “Vợ nhặt” đã được xây dựng trên cơ sở của một tình huống lạ?
   4/ Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ. Qua đó , em hiểu gì về tấm lòng của người mẹ nghèo?
   5/. Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân
   6/ Phân tích tình huống truyện độc đáo mà Kim Lân đã tạo dựng trong truyện Vợ nhặt. Qua đó nêu lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm ?
  
THAM KHẢO MỘT SỐ BÀI VIẾT SAU:
  1/Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Bà cụ Tứ vốn là một nông dân từng trải, trung hậu. Cụ hiểu rõ hoàn cảnh của gia đình mình; Con trai mình trong những ngày tháng bị cái đói hành hạ ghê ghớm.
Khi trông thấy người đàn bà ở trong nhà với con mình, bà cụ Tứ vô cùng ngạc nhiên “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà nhỉ? (…) Sao lại chào mình bằng u (…) Ai thế nhỉ? (…) Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Đến lúc biết được người đàn bà kia chính là vợ của con trai mình, tâm trạng của bà cụ diễn biến khá phức tạp, phong phú.
Trước hết, nghĩ đến cảnh túng thiếu, đói khát của gia đình mình cụ Tứ thấy tủi thân, tủi phận. Cụ ý thức rất rõ lấy vợ cho con trai lẽ ra phải thế này, thế nọ; nhưng cái khó bó cái khôn nên chỉ còn cách nghĩ ngợi tủi thân, tủi phận. Rồi cụ thương con đẻ, thương đến cả con dâu. Cụ biết duyên cớ vì đâu người ta phải theo con mình (“Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót”, và cụ nói với vợ chồng Tràng “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.
Việc Tràng “nhặt” được vợ vừa là nỗi buồn rầu lo lắng, vừa là niềm vui mừng của bà lão tội nghiệp này. Mừng vì người con thô lậu, quê kệch đã có vợ. Lo vì đúng lúc đói khát, chết chóc này, liệu lấy gì mà nuôi nhau. Tuy vậy, dẫu sao niềm vui vẫn nhiều hơn. Bà lão “tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăn xắn thu dọn quét tước nhà cửa”. Đến bữa ăn, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cụ cố giấu cái lo, động viên các con “nhà ta thì còn nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì con cái chúng mày về sau”.
Nhưng “nghĩ ngợi mãi”, “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng”. Bởi bà cụ nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời khổ cực của mình, nghĩ đến tương lai của con trai và con dâu… và chẳng thể thoát ra khỏi không khí chết chóc đang bủa vây xung quanh.
Qua diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ. Chúng ta có thể nhận thấy biệt tài phát hiện và miêu tả tâm lí một cách chân thật và sắc sảo của Kim Lân. Điều này có tác dụng to lớn, khắc hoạ rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một mái ấm gia đình
 2/Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim lân muốn bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Ấy là khi nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai.
Không phải ngẫu nhiên. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về cái đói. Chỉ mấy chữ “Cái đói đã tràn đến…” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người xứ Việt về một hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy “tràn đến”, tức là mạnh như thác dữ.
Cách tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối”, nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ông so sánh người với ma: “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó là cái thời mà ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo. Chao ôi, toàn những chuyện cười ra nước mắt: bốn bát bánh đúc ngày đói mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân hôn… Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến đáy, tạo cho thiên truyện một cái “phông” đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm, tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã.
Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng lên một bản cáo trạng trong Vợ nhặt , mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ trong bóng tối của hoàn cảnh Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là một phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.
Trong văn chương người ta thường nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái tài không đạt đến một mức nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ ra được. Ở Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng thiết tha của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài dẫn truyện.
Tài dựng truyện ở đây là tài tạo nên một tình huống độc đáo. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài trả lời phỏng vấn, Kim Lân hào hứng giải thích:”nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ – đúng là “nhặt” được vợ như tôi nói trong truyện”. Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa: “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Tình huống trên gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng người: trạng thái chông chênh khó nói – cái gì cũng chập chờn, như có, như không. Đây là niềm vui hay buồn? Nụ cười hay nước mắt?... Cái thế đặc biệt của tâm trạng này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.
Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm ngòi pháo. Có lửa tốt, châm đúng ngòi nhưng dây pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ xịt như thường. Cho nên tài dựng truyện, phải gắn với tài dẫn truyện nữa mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài dẫn truyện của Kim Lân thể hiện qua lối sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành công, qua lời văn áp sát vào tận cái lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được “bứng” ra từ chính cái chất liệu ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là ở bút pháp hiện thực tâm lí. Phải nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là hai trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lí trước một tình thế như nhau, song không ai giống ai.
Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, có ai ngờ lại là một chàng trai thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng. Cơn say hạnh phúc thăng hoa trong tâm linh, khiến Tràng mất trọng lượng, lơ lửng trong cõi ảo, cõi mơ. Ngòi bút thực của Kim Lân từng tỉnh thế, bây giờ ngòi bút trữ tình của ông cũng sao mà say thế. Nói đúng hơn, nhà văn phải đứng giữa cái say / tỉnh ấy mới “cảm thụ” tới tận đáy cuộc đời, mới tạo ra được những áng “thần bút” như văn Kim Lân trong “Vợ nhặt”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chẳng thế mà một người nổi tiếng như Secnưsepxki từng mơ ước: “Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong một căn phòng nhỏ ấm áp nào đó, có một người đàn bà đang ngóng đợi tôi về bữa ăn tối”. Chàng thanh niên nghèo khó của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm vui như thế: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim Lân may mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn trong tay Tràng.Còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối cướp mất. Có một chi tiết rất đắc của Kim Lân: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. So với cái dáng “ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
Bình luận truyện Vợ nhặt, không hiểu sao có một câu rất quan trọng của Kim Lân mà nhiều người hay bỏ qua. Đó là câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Một câu kết như thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Số phận con người trong văn học hiện thực đồng nghĩa với bế tắc. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
Quá trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con trai, niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với một chàng rễ trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo kiểu gấp khúc hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu.
Cũng như con trai, khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con trai ngỡ ngàng trước một cái đã biết, còn bà mẹ ngỡ ngàng trước một cái dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?” Rồi lại:”Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Trái tim người mẹ có con trai vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút “kịch” trong ngòi bút Kim Lân chăng? Không, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đó.
Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì bà cụ Tứ, sự vận động tâm lý phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão”cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo, thương lẫn lộn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: “… chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Trong chữ “chúng nó” người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần phơi phới.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con…, để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:”chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ… nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – Bà lão múc ra một bát – chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon”này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.
Thành công của nhà văn là thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lí khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt. Biết vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm.
 Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. Trong tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế đấy, nhà văn Nga Nhicôlai Oxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”. Vợ nhặt là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ đã “biết sống” như con người ngay giữa thời túng đói quay quắt.
Thông điệp này đã được Kim Lân chuyển hóa thành một thiên truyện ngắn xuất sắc với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

 3. RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành
I. Tác giả:
- Nguyễn Trung Thành (Bút danh khác là Nguyên Ngọc) tên khai sinh là Nguyễn văn Báu, sinh năm 1932.
- Quê hương: Thăng Bình - Quảng Nam.
- Năm 1950, ông vào bộ đội, sau đó làm phóng viên Báo Quân đội nhân dân Liên khu V. Sau năm 1954 ông tập kết ra Bắc và năm 1962 ông trở về chiến trường Miền Nam, hoạt động ở Quảng Nam và Tây Nguyên.
- Nguyên Ngọc từng sống, gắn bó với Tây Nguyên và chính sự hiểu biết, lòng yêu mến đối với thiên nhiên, con người Tây Nguyên đã khiến Nguyên Ngọc trở thành người đầu tiên đưa vùng đất Tây Nguyên vào văn xuôi và là người viết thành công về vùng đất ấy.
- Văn chương Nguyên Ngọc đạt tới tầm vóc của những khúc sử thi hào hùng và mang rất nhiều vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn.
- Tác phẩm tiêu biểu: “Đất nước đứng lên” (Giải nhất giải thưởng Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955); “Rừng xà nu”; “Đất Quảng”; “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”
II/ Tác phẩm “Rừng xà nu”:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
            Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết năm 1965. Đây là tác phẩm nổi tiếng được Nguyên Ngọc viết trong những năm kháng chiến ác liệt chống đế quốc Mĩ.
2. Tóm tắt tác phẩm:
            Làng của người dân Xôman thuộc bộ tộc Strá bị tàn sát đau thương bởi đạn đại bác của giặc.
            Tnú - người anh hùng của dân làng Xôman - về thăm làng sau 3 năm đi lực lượng. Trong buổi họp mặt, cụ Mết đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời hoạt động của Tnú.
            Tnú mồ côi cha mẹ, được dân làng Xôman nuôi lớn. Từ nhỏ, Tnú đã cùng với Mai đi làm liên lạc cho cán bộ cách mạng là anh Quyết ở trong rừng. Có lần, Tnú bị bắt khi đang làm nhiệm vụ, Tnú nhanh trí nút lá thư vào bụng và quyết không khai dù bị tra tấn dã man.
            Sau 3 năm bị tù, Tnú trốn về, thay anh Quyết hướng dẫn dân làng khởi nghĩa. Giặc bao vây làng, quyết định bắt cho bằng được Tnú. Không bắt được Tnú, chúng bắt vợ con anh tra tấn dã man. Tnú xông vào giữa bọn lính che chở cho vợ con nhưng anh đã không cứu sống được họ. Anh bị giặt bắt, chúng đốt 10 đầu ngón tay anh bằng nhựa xà nu nhưng anh vẫn giữ được tinh thần.
            Sau đó, dưới sự chỉ huy của cụ Mết, đám thanh niên ở trong rừng về giết hết bọn giặc, cứu Tnú. Tuy mỗi ngón tay trên bàn tay Tnú chỉ còn 2 đốt, Tnú vẫn tham gia lực lượng giải phóng quân chiến đấu bảo vệ quê hương.
3. Nội dung:
a/ Ý nghĩa hình tượng rừng xà nu:
            Mở đầu và kết thúc tác phẩm là hình ảnh rừng xà nu. Nó vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa tượng trưng.
- Ý nghĩa hiện thực: Thiên nhiên bị tàn phá dữ dội trong chiến tranh nhưng vẫn có sức sống mãnh liệt.
            Cây xà nu, rừng xà nu là hiện thân cho vẻ đẹp của núi rừng Tây Nguyên, của thiên nhiên đất nước.
- Ý nghĩa tượng trưng: Tượng trưng cho số phận đau thương nhưng rất bất khuất, kiên cường của dân tộc Tây Nguyên trong việc cầm vũ khí đứng lên chiến đấu bảo vệ quê hương. Sức sống của rừng xà nu cũng là sức sống mãnh liệt, bền bĩ của dân làng Xôman nói riêng, của Tây Nguyên nói chung và hơn là của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam.
b/ Hình tượng nhân vật:
*. Cụ Mết:
- Ngoại hình rắn rỏi, tính cách trầm tĩnh, vững vàng, sáng suốt, là gạch nối của Đảng với đồng bào dân tộc.
- là người đứng đầu buôn làng, có vai trò giáo dục rất lớn đối với dân làng.
→ Biểu tượng cho sức mạnh vật chất và tinh thần có tính truyền thống và cội nguồn của các dân tộc Tây Nguyên.
*. Dít:
- Có đôi mắt bình thản, trong suốt, nghiêm khắc biểu hiện một bản lĩnh vững vàng trước mọi tình huống.
- Gương mẫu, nhiệt tình, rất nguyên tắt.
- Tình cảm sâu sắc nhưng lặng lẽ, kín đáo.
*. Bé Heng: Tiêu biểu cho thế hệ trẻ sẽ còn vươn xa hơn nữa; gắn bó với cách mạng, tự hào về quê hương.
*. Tnú (Nhân vật trung tâm):
- Mồ côi cha mẹ, được dân làng Xôman nuôi lớn.
- Phẩm chất:
            + Gan góc, mưu trí, táo bạo, dũng cảm (lúc còn làm liên lạc, học chữ, nuôi cán bộ trong rừng ...)
            + Giàu tình yêu quê hương, nhận thức sâu sắc về Đảng, trung thành với cách mạng, gắn bó với mọi người trong buôn làng.
            + Căm thù giặc sâu sắc.
            + Có ý thức kỷ luật cao.
            + Có nỗi đau lớn về thể xác và tinh thần nhưng biết vượt lên mọi đau đớn, bi kịch của gia đình, bản thân để đấu tranh kiên cường, bất khuất hướng về lí tưởng cách mạng. Khắc sâu chân lí cụ Mết truyền dạy “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
→ Là con chim đầu đàn của Tây Nguyên anh hùng.
4. Giá trị nghệ thuật:
- Mang đậm màu sắc sử thi.
            + “Rừng xà nu” là tiếng nói lịch sử của thời đại gắn liền với những vận động, biến cố có ý nghĩa trọng đại đối với toàn dân.
            + “Rừng xà nu” mang một hình thức sử thi hoành tráng từ hình ảnh (rừng núi, con người) đến âm hưởng qua lời văn giàu sức tạo hình, giàu nhạc điệu.
- Thủ pháp nhân hoá, tượng trưng: rừng xà nu → con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất.
- Kết cấu, cốt truyện độc đáo.
Câu hỏi:
1. Tìm những chi tiết trong tác phẩm miêu tả vẻ đẹp và sức sống của rừng xà nu?
2. Ý nghĩa của hình tượng rừng xà nu?
3. “Rừng xà nu là truyện của một đời và được kể trong một đêm.” Người anh hùng mà cụ Mết kể trong cái đêm dài ấy có những phẩm chất đáng quý nào?
4. Câu chuyện của Tnú cũng như của dân làng Xôman nói lên chân lí lớn nào của dân tộc ta trong thời đại bấy giờ?
5. Phân tích những cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm?

4. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH - Nguyễn Thi

I/ Tác giả:
- Nguyễn Thi (1928-1968) bút danh là Nguyễn Ngọc Tấn, tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca.
- Quê hương: Hải Hậu - Nam Định.
- Cuộc sống tủi cực, vất vả từ nhỏ.
- Năm 1945, ông tham gia cách mạng, vừa chiến đấu vừa hoạt động văn nghệ.
- Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và năm 1962 ông tình nguyện trở lại chiến trường miền Nam.
- Năm 1968, ông hy sinh ở mặt trận Sài Gòn.
- Nguyễn Thi gắn bó sâu sắc với nhân dân Nam Bộ và trở thành nhà văn của người nông dân Nam Bộ trong thời ký kháng chiến chống Mĩ.
- Nhân vật tiêu biểu của Nguyễn Thi là những người nông dân Nam Bộ với những nét tính cách tiêu biểu.
- Là cây bút có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo.
- Ngôn ngữ Nguyễn Thi góc cạnh, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm chất Nam Bộ.
II/ Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”:
1. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt (chống Mĩ cứu nước) khi tác giả công tác ở tạp chí “Văn nghệ Quân giải phóng”
2. Tóm tắt tác phẩm:
            Việt là một chiến sĩ giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mối thù sâu nặng với Mĩ - Ngụy: ông nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt cố nén nỗi đau riêng vất vả nuôi con khôn lớn, và cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị Chiến, thằng Út em, chú Năm. Truyền thống cách mạng vẻ vang và những đau thương, mất mát của gia đình được chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ gia đình.
            Việt và Chiến hăng hái tòng quân đi giết giặc, quyết tâm lập nhiều chiến công để trả thù cho ba má.
            Trong một trận chiến đấu ác liệt, Việt bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức đưa Việt về với những kỷ niệm thân thiết về má, chị Chiến, chú Năm và đồng đội ...
            Việt được đưa về điều trị, sức khoẻ hồi phục dần và tiếp tục chiến đấu để xứng đáng hơn nữa với truyền thống của gia đình, quê hương.
3. Nội dung:
a/ Truyền thống gia đình đã gắn bó những con người với nhau:
- Căm thù giặc sâu sắc.
- Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu, giết giặc.
- Giàu tình nghĩa, rất mực thuỷ chung, son sắc với quê hương và cách mạng.
→ Tạo nên một dòng sông truyền thống.
b/ Nét riêng của từng con người trong gia đình:
*. Chú Năm:
- Là tác giả của cuốn gia phả ghi lại những chiến công và bao mất mát, đau thương của gia đình do tội ác của giặc gây ra.
- Là người lao động chất phác và rất giàu tình cảm (tiếng hò của chú chứa đầy tâm tư, cảm xúc).
→ Chú Năm là khúc thượng nguồn của dòng sông truyền thống, là nơi kết tinh truyền thống của gia đình.
*. Má Việt:
- Căm thù giặc sâu sắc, gan góc.
- Đảm đang, tháo vát, thương chồng thương con; biết ghìm nén đau thương để nuôi con, đánh giặc.
→ Biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam.
*. Chị Chiến:
- Tính cách rất đa dạng: vừa có nét “trẻ con” của một cô gái mới lớn, vừa biết nhường nhịn em, lo toan gia đình.
- Giống mẹ: gan góc, đảm đang.
- Khác mẹ: ở vẻ trẻ trung, thích làm duyên, xung phong đi đánh giặc, trả thù nhà, với lời thề sắt đá: “làm thân con gái ra đi, tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất”.
→ Biết kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dân tộc.
*. Việt:
- Tính cách rất “trẻ con, hồn nhiên, hiếu động.
- Có tình thương yêu và gắn bó sâu sắc với gia đình.
- Dũng cảm, kiên cường, gan góc, luôn sôi nổi tinh thần chiến đấu, quyết tâm lập nhiều chiến công để trả mối thù lớn.
→ Một con sóng vươn xa nhất trong dòng sông truyền thống, là người tiêu biểu nhất cho tinh thần tiến công cách mạng.
4. Nghệ thuật:
- Nghệ thuật kể chuyện độc đáo: “Những đứa con trong gia đình” được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật Việt: đó là dòng hồi tưởng đứt nối của anh khi bị thương nằm ở chiến trường.
→ Câu chuyện tự nhiên, sống động, hấp dẫn; đồng thời nhà văn có điều kiện nhập sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để dẫn dắt câu chuyện.
- Ngôn ngữ góc cạnh, có giá trị tạo hình và mang đậm tính chất Nam Bộ.
- Xây dựng nhân vật qua những chi tiết cụ thể, đắt giá; tạo được không khí chân thực, sống động.
Câu hỏi:
1. Phân tích nghệ thuật trần thuật đặc sắc của tác phẩm?
2. Nét đặc sắc trong tính cách của các nhân vật: chú Năm, má Việt,chị Chiến và Việt?
3. Trong tác phẩm, Nguyễn Thi có nêu lên quan niệm: “Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển...”
Anh(chị) có cho rằng, trong thiên truyện của Nguyễn Thi quả đã có một dòng sông truyền thống liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha cho đến lớp người đi sau: chị em Chiến, Việt?
4. Những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm? Phân tích những biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong đoạn trích đã học?

5. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - Nguyễn Minh Châu

I/ Tác giả: Nguyễn Minh Châu (1930-1989)
- Quê quán: Quỳnh Lưu - Nghệ An.
- Năm 1950: ông tham gia quân đội và là nhà văn quân đội.
- Sau năm 1975, văn chương Nguyễn Minh Châu trở về với đời thường, đi sâu, khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự.
→ Là nhà văn “Mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”.
* Tác phẩm chính: Cửa sông (1967), Những vùng trời khác nhau (1970), Dấu chân người lính (1972), Những người đi từ trong rừng ra (1982), Bến quê (1985), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Chiếc thuyền ngoài xa (1987), Cỏ lan (1989) ...
II/ Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”:
1. Hoàn cảnh ra đời:
Năm 1987, đất nước đang trong thời kì đổi mới, cuộc sống có nhiều thay đổi.
2/ Tóm tắt tác phẩm:
            Theo đề nghị của trưởng phòng để có được một bức ảnh nghệ thuật chụp cảnh thuyền và biển, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã thực hiện một chuyến đi thực tế tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Sau gần một tuần tìm kiếm, Phùng săn được cảnh thuyền và biển lúc bình minh thật đẹp. Thế nhưng, đằng sau cảnh đẹp đó, người nghệ sĩ đã chứng kiến một sự thật phũ phàng: cảnh lão đàn ông dữ dằn, thô kệch đánh vợ một cách vô lí và thô bạo. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến sự việc này. Không thể nén chịu được nữa, Phùng đã xông ra can ngăn lão đàn ông, anh bị thương, được đưa về trạm y tế của toà án huyện. Ở đó, anh được nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao sự cảm thông, ngỡ ngàng, ngạc nhiên ...
            Bức ảnh chụp cảnh thuyền và biển trong buổi sáng mờ sương của nghệ sĩ Phùng đã khiến trưởng phòng rất hài lòng và nó được treo ở nhiều nơi. Kì lạ thay, mỗi lần nhìn vào đó, bao giờ Phùng cũng thấy hiện lên hình ảnh người đàn bà chậm rãi bước ra rồi hoà lẫn vào trong đám đông…
3. Nội dung:
a/ Những phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh:
- Phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương: chiếc thuyền ngoài xa mà ánh sáng và đường nét đều hài hoà, tuyệt đẹp.
            + Như một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ.
            + Khám phá ra chân lí của sự toàn thiện, khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
→ Người nghệ sĩ như bắt gặp cái tận thiện, tận mĩ và tâm hồn như được gột rửa, trở nên trong trẻo
- Phát hiện thứ hai thật bất ngờ và trớ trêu như trò đùa của cuộc sống: ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác (lão đàn ông đánh vợ một cách tàn nhẫn, vô lí và người vợ nhẫn nhục chịu đựng)
→ Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia là thứ “thuốc rửa” làm những bức ảnh hiện lên thật khủng khiếp, ghê sợ.
b/ Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện: (là câu chuyện về sự thật cuộc đời)
- Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập nhưng vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu đó.
- Nguồn gốc của sự chịu đựng, hi sinh của người đàn bà là tình thương đối với con.
- Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn tìm ra được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi.
→ Câu chuyện trên giúp Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều, hiểu hơn về cuộc đời, con người.
=> Con người, nhất là nghệ sĩ không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.
c/ Cảm nhận về các nhân vật tác phẩm:
*. Người đàn bà:
- Ngoài 40 tuổi, mặt rỗ, “khuôn mặt mệt mỏi”: cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ.
- Vì tình thương những đứa con, người đàn bà lặng lẽ chấp nhận bị hành hạ, chịu đựng mọi đau đớn.
- Cam chịu, nhẫn nhục, không bao giờ để lộ cảm xúc ra bên ngoài.
→ Người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh.
*. Lão đàn ông:
- Cuộc sống đói khổ, cực nhọc, lo toan đã biến “anh con trai hiền lành” thành một người chồng vũ phu, độc ác.
- Đánh đập vợ con như là cách để giải toả ất uất, buồn phiền.
→ Vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính người thân của mình.
*. Chị em Phác
- Chị thằng Phác hiểu biết, can đảm (cản việc làm dại dột của em); biết chăm sóc, lo toan gia đình thay mẹ.
- Thằng Phác: Gây cảm động cho người đọc bởi tình thương mẹ dạt dào.
*. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:
- Biết căm ghét, phẫn nộ trước mọi sự áp bức, bất công.
- Anh cảm thấy hạnh phúc, xúc động ngỡ ngàng  trước vẻ đẹp tinh khôi của cảnh thuyền và biển lúc bình minh.
- Kinh ngạc, túc giận trước sự bạo hành của cái xấu, cái ác.
- Hành động như một phản xạ tự nhiên: “vứt cái máy ảnh xuống đất chạy nhào tới” đề ngăn việc làm xấu xa của người đàn ông.
→ Không vì nghệ thuật mà bỏ quên cuộc đời. Sẵn sàng làm tất cả vi cuộc sống tốt đẹp.
4. Nghệ thuật:
- Xây dựng cốt truyện độc đáo: tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
- Ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo.     
            + Ngôn ngữ kể chuyện (tác giả hoá thân vào nhân vật Phùng) điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể chuyện khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục.
            + Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người.
Câu hỏi:
 1. Vẻ đẹp của chiếc thuyên ngoài xa trên biển sớm mờ sương được miêu tả như thế nào trong tác phẩm? Cảm nhận của người nghệ sĩ nhiếp ảnh về cảnh đẹp đó?
2. Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đằng sau khung cảnh thơ mộng đó là gì? Thái độ của Phùng khi chứng kiến cảnh diễn ra ở gia đình hàng chài nói lên điều gì?
3. Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện đã tác động như thế nào đến những người như Phùng, Đẩu?
4. Nét đặc sắc về nghệ thuật của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”?
5. Nhân vật nào trong tác phẩm đã để lại anh (chị) ấn tượng sâu sắc nhất? vì sao?

G. MỘT ĐOẠN TRÍCH KỊCH:
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
       Lưu Quang Vũ
I/ Tác giả:
- Lưu Quang Vũ (1948-1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đình tri thức.
- Từ năm 1965-1970: phục vụ quân đội.
- Từ năm 1970-1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh.
- Từ năm 1978-1988: bắt đầu sáng tác.
- Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng: làm thơ, sáng tác văn xuôi, vẽ tranh và soạn kịch.
- Đóng góp xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ là soạn kịch. Lưu Quang Vũ không chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
*. Tác phẩm tiêu biểu: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Chết cho điều chưa có, Nếu anh không đốt lửa, Lời thề thứ 9, Tôi và chúng ta ...
II/ Tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
1. Hoàn cảnh sáng tác:
- Tác phẩm được viết năm 1981 và ra mắt công chúng năm 1984, là một vở kịch đặc sắc của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước.
- Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.
2. Tóm tắt:
            Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Mọi rắc rối do hồn Trương ba phải mượn xác hàng thịt bắt đầu xảy ra: lí tưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ ... mà bản thân Trương Ba thì phải đau khổ, bất lực vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo.
            Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt diễn ra, trong đó, xác hàng thịt khẳng định sức mạnh và thế lấn tới của hắn đối với hồn Trương Ba.
            Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Cùng lúc, cu Tị, con một người hàng xóm ốm nặng, sắp chết. Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba cương quyết từ chối, xin cho cu Tị được sống đồng thời trả xác cho nhà hàng thịt và chấp nhận cái chết.
3. Nội dung:
a/ Các lớp đối thoại và ý nghĩa của chúng:
*. Màn đối thoại giữa hồ Trương Ba với xác hàng thịt:
- Nghịch cảnh: linh hồn nhân hậu, trong sạch phải trú nhờ trong một thân xác thô phàm.
- Linh hồn Trương Ba lệ thuộc và bị xác thịt thô phàm điều khiển, lấn át.
- Xác hàng thịt tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù, ghê gớm của mình, tìm cách khống chế, ve vãn, kêu gọi hồn Trương Ba thoả hiệp bằng những lí lẽ ti tiện.
- Hồn Trương Ba ý thức sâu sắc về sự tha hoá, dằn vặt, đau khổ, tìm cách thoát khỏi xác thịt để tồn tại độc lập.
- Xác hàng thịt khẳng định sự thắng thế của mình: “chẳng còn cách nào khác nữa đâu”.
- Hồn Trương Ba khinh bỉ, mắng mỏ lí lẽ đê tiện của xác hàng thịt nhưng rồi ngậm ngùi, thấm thía nghịch cảnh của mình và nhập vào xác hàng thịt một cách tuyệt vọng.
             Hàm ý của đối thoại:
- Trương Ba được trả lại sự sống nhưng đó là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải chung sống với sự dung tục và bị dung tục đồng hoá.
- Khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục ấy sẽ ngự trị, thắng thế và sẽ tàn phá những gì trong sạch, cao quý của con người.
*. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân.
- Không chỉ bản thân Trương Ba đau khổ mà còn gây đau khổ cho những người thân yêu.
- Vợ Trương Ba đau khổ bỏ đi; con dâu thương cảm, xót thương cho hoàn cảnh của bố chồng; cháu gái phản ứng dữ dội, quyết liệt, không chấp nhận sự tồn tại của ông.
- Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba đã lên đến đỉnh điểm.
- Tình huống bi kịch thúc đẩy hồn Trương Ba phải lựa chọn với sự phản kháng mãnh liệt: “không cần đến cái đời sống do mày mang lại. Không cần”.
=> Con người phải đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách.
*. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích:
- Hồn Trương Ba không chấp nhận kiểu sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, muốn được là chính mình một cách trọn vẹn.
- Đế Thích ngạc nhiên vì những yêu cầu của Trương Ba.
- Hồn Trương Ba chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”.
- Đế Thích khuyên Trương Ba nên chấp nhận hoàn cảnh. Sau đó Đế Thích sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị.
- Hồn Trương Ba kiên quyết từ chối việc nhập vào xác cu Tị vì đó cũng là một cuộc sống “còn khổ hơn cái chết”.
- Đế Thích chấp nhận yêu cầu của Trương Ba với thắc mắc: “con người hạ giới các ông thật kì lạ”
. Quan niệm về sự sống:
- Đế Thích có cái nhìn hời hợt, phiến diện về con người.
- Trương Ba ý thức sâu sắc về ý nghĩa của cuộc sống: hồn và xác phải hài hoà, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi.
* Màn kết:
- Trương Ba trả xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để được là chính mình và linh hồn được trong sạch.
- Hoá thân vào cây cỏ, các sự vật thân thưong để tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu.
→ Thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp, của cuộc sống đích thực.
b/ Chủ đề tư tưởng:
            Thông qua những màn đối thoại của vở kịch, Lưu Quang Vũ đã đưa ra một quan niệm cao đẹp về cách sống: hãy sống chân thật với chính mình, phải biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân mình, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
4. Nghệ thuật:
- Xung đột giàu kịch tính.
- Ngôn ngữ đắc trưng cho ngôn ngữ kịch.
- Sự kết hợp tính hiện đại với các giá trị truyền thống.
- Chất thơ, chất trữ tình bay bổng.
Câu hỏi:
1. Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt? Qua đó tác giả muốn gởi gắm điều gì?
2. Trước phản ứng của người thân và những rắc rối, bất ổn mà mình phải chịu đựng, Trương Ba có thái độ như thế nào?
3. Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích? Màn đối thoại này toát lên ý nghĩa gi?
4. Theo em vì sao Trương Ba quyết định trả xác hàng thịt, từ chối nhập vào cu Tị và chấp nhận cái chết?
5. Qua đoạn trích của vở kịch, tác giả muốn gởi gắm đến người đọc thông điệp gì?
Bài Số phận con ngưòi:

H. VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI:

1. THUỐC
                                                                                                         Lỗ Tấn

I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
+ Lỗ Tấn (1881-1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, miền Đông Nam Trung Quốc. Ông là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc thế kỉ XX. “Trước Lỗ tấn chưa hề có Lỗ Tấn; sau Lỗ Tấn có vô vàn Lỗ Tấn”  (Quách Mạt Nhược)
+ Tuổi trẻ của Lỗ Tấn đã nhiều lần đổi nghề để tìm một con đường cống hiến cho dân tộc: từ nghề khia mỏ đến hàng hải rồi nghề y, cuối cùng làm văn nghệ để thức tỉnh quốc dân đồng bào. Con đường gian nan để chọn ngành nghề của Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn lịch sử Trung Hoa thời cận hiện đại, vừa nói lên tâm huyết của một người con ưu tú của dân tộc.
+ Quan điểm sáng tác văn nghệ của Lỗ Tấn được thể hiện nhất quán trong toàn bộ sáng tác của ông: phê phán những căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội, tự thoả mãn “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.
+ Tác phẩm chính: AQ chính truyện (Kiệt tác của văn học hiện đại Trung Quốc và thế giới), các tập Gào thét, Bàng hoàng, Truyện cũ viết theo lối mới,  hơn chục tập tạp văn có giá trị phê phán, tính chiến đấu cao
2. Hoàn cảnh sáng tác truyện Thuốc
 Thuốc được viết năm 1919, đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ tứ bùng nổ. Đây là thời kì đất nước Trung Hoa bị các đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Nhật xâu xé. Xã hội Trung Hoa biến thành nửa phong kiến, nửa thuộc địa, nhưng nhân dân lại an phận chịu nhục. “Người Trung Quốc ngủ mê trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ” (Lỗ Tấn). Đó là căn bệnh đớn hèn, tự thoả mãn, cản trở nghiêm trọng con đường giải phóng dân tộc. Chính nhà cách mạng lỗi lạc thời này là Tôn Trung Sơn cũng nói: “Trung Quốc ấy với một thông điệp: Người Trung Quốc là một con bệnh trầm trọng”. Thuốc đã ra đời trong bối cảnh ấy với một thông điệp: cần suy nghĩ nghiêm khắc về một phương thuốc để cứu dân tộc.
II. TÌM HIỂU VĂN BẢN
1. Bố cục
+ Phần I: Thuyên mắc bệnh lao. Mẹ Thuyên đưa tiền cho chồng ra chỗ hành hình người cộng sản mua bánh bao tẩm máu về chữa bệnh cho con (Mua thuốc)
+ Phần II: Thuyên ăn cái bánh bao đẫm máu nhưng vẫn ho. Thuyên nghe tim mình đập mạnh không sao cầm nổi, đưa tay vuốt ngực, lại một cơn ho (Uống thuốc)
+ Phần III: Cuộc bàn luận trong quán trà về thuốc chữa bệnh lao, về tên “giặc” Hạ Du (Bàn về thuốc)
+ Phần IV: Nghĩa địa vào dịp tiết Thanh minh. Hai người mẹ trước hai nấm mồ: một của người chết bệnh, một chết vì nghĩa ở hai khu vực, ngăn cách bởi một con đường mòn (Hậu quả của thuốc)
2. Ý nghĩa nhan đề truyện và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu
Nhan đề "Thuốc"
+ Thuốc,  nguyên văn là "Dược" (trong từ ghép Dược phẩm), phản ánh một quá trình suy tư nặng nề của Lỗ Tấn (động cơ và mục đích đổi nghề của Lỗ Tấn). Nhận thức rõ thực trạng nhận thức của người dân Trung Quốc thời bấy giờ “ngu muội và hèn nhát”, nhà văn không có ý định và cũng không đặt ra vấn đề bốc thuốc cho xã hội mà chỉ muốn “lôi hết bệnh tật của quốc dân, làm cho mọi người chú ý và tìm cách chạy chữa”. Tên truyện chỉ có thể dịch là Thuốc (Trương Chính). Vị thuốc (Nguyễn Tuân) chứ không thể dịch là Đơn thuốc (Phan Khải). Nhan đề truyện có nhiều nghĩa.
+ Tầng nghĩa ngoài cùng là phương thuốc truyền thống chữa bệnh lao. Một phương thuốc u mê ngu muội giống hệt phương thuốc mà ông thầy lang bốc cho bố Lỗ Tấn bị bệnh phù thũng với hai vị “không thể thiếu” là rễ cây nứa kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái dẫn đến cái chết oan uổng của ông cụ.
+ Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu
 “Bánh bao tẩm máu người”, nghe như chuyện thời trung cổ nhưng vẫn xảy ra ở nước Trung Hoa trì trệ. Tầng nghĩa thứ nhất - nghĩa đen của tên truyện là: thuốc chữa bệnh lao. Thứ mà ông bà Hoa Thuyên xem là “tiên dược” để cứu mạng thằng con “mười đời độc đinh” đã không cứu được nó mà ngược lại đã giết chết nó - đó là thứ thuốc mê tín.
+ Trong truyện, bố mẹ thằng Thuyên đã áp đặt cho nó một phương thuốc quái gở. Và cả đám người trong quán trà cũng cho rằng đó là thứ thuốc tiên. Như vậy, tên truyện còn hàm nghĩa sâu xa hơn, mang tính khai sáng: đây là thứ thuốc độc, mọi người cần phải giác ngộ ra rằng cái gọi là thuốc chữa bệnh lao được sùng bái là một thứ thuốc độc.
Người  Trung Quốc cần phải tỉnh giấc, không được ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có sửa sổ.
+ Chiếc bánh bao - liều thuốc độc lại được pha chế bằng máu của người cách mạng - một người xả thân vì nghĩa, đổ máu cho sự nghiệp giải phóng nông dân... Những người dân ấy (bố mẹ thằng Thuyên, ông Ba, cả Khang...) lại dửng dưng, mua máu người cách mạng để chữa bệnh.... Với hiện tượng chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du, Lỗ Tấn đã đặt ra một vấn đề hết sức hệ trọng là ý nghĩa của hi sinh. Tên truyện vì thế mang tầng nghĩa thứ ba: Phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng giác ngộ cách mạng và làm cho cách mạng gắn bó với quần chúng.
3. Ý nghĩa cuộc bàn luận trong quán trà về Hạ Du
+ Chủ đề bàn luận của những người trong quán trà của lão Hoa trước hết là công hiệu của “thứ thuốc đặc biệt” - chiếc bánh bao tẩm máu người.
+ Từ việc bàn về công hiệu của chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du chuyển sang bàn về bản thân nhân vật Hạ Du là diễn biến tự nhiên, hợp lí.
+ Người tham gia bàn luận tán thưởng rất đông song phát ngôn chủ yếu vẫn là tên đao phủ Cả Khang, ngoài ra còn một người có tên kèm theo đặc điểm (cậu Năm gù) và hai người chỉ có đặc điểm (“Người trâu hoa râm”, “anh chàng hai mươi tuổi”).
+ Những lời bàn luận ấy, Lỗ Tấn đã cho ta thấy:
- Bộ mặt tàn bạo, thô lỗ của Cả Khang
- Bộ mặt lạc hậu cảu dân chúng Trung Quốc đương thời
- Lòng yêu nước của người chiến sĩ cách mạng  Hạ Du
4. Không gian, thời gian nghệ thuật và ý nghĩa của chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du
+ Câu chuyện xảy ra trong 2 buổi sớm vào hai mùa thu, mua xuân có ý nghĩa không tượng trưng. Buổi sáng đầu tiên có 3 cảnh: cảnh sáng tinh mơ đi mua bánh bao chấm máu người, cảnh pháp trường và cảnh cho con ăn bánh, cảnh quán trà.... Ba cảnh gần như liên tục, diễn ra trong mùa thu lạnh lẽo. Bối cảnh quán trà và đường phố là nơi tụ tập của nhiều loại người do đó hình dung được dư luận và ý thức xã hội. Buổi sáng cuối cùng là vào dịp tết Thanh minh- mùa xuân tảo mộ. Mùa thu lá rụng, mùa xuân đâm chồi nảy lộc, gieo mầm.
+ Vòng hoa trên mộ Hạ Du: Có thể xem vòng hoa là cực đối lập của “chiếc bánh bao tẩm máu”. Phủ định vị thuốc là bằng chiếc bánh bao tẩm máu, tác giả mơ ước tìm kiếm một vị thuốc mới- chữa được cả những bệnh tật về tinh thần cho toàn xã hội với điều kiện tiên quyết là mọi người phải giác ngộ cách mạng, phải hiểu rõ “ý nghĩa của sự hi sinh” của những người cách mạng.
+ Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du chủ đề tư tưởng tác phẩm mới được thể hiện trọn vẹn, nhờ đó mà không khí của truyện vốn rất u buồn tăm tối song điều mà tác giả đưa đến cho người đọc không phải là tư tưởng bi quan.
III. TỔNG KẾT
Với cốt truyện đơn giản, cách viết cô đọng, giàu hình ảnh mang tính biểu tượng, Thuốc của Lỗ Tấn thể hiện một nội dung sâu sắc: một dân tộc chưa ý thức được “bệnh tật” của chính mình và chưa có được ánh sáng tư tưởng cách mạng, dân tộc đó vẫn chìm đắm trong mê muội.
IV/ ĐỀ THAM KHẢO
Câu 1 : Trình bày ngắn gọn cuộc đời và sự nghiệp văn chương của LỖ TẤN
 a/ Cuộc đời :
Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân , là nhà văn cách mạng nổi tiếng của nền văn học hiện đại Trung Quốc  nửa đầu thế kỷ XX , sinh năm 1881 , mất 1936 , xuất thân trong một gia đình quan lại sa sút ở tỉnh Chiết giang TQ .
Ông là một trí thức yêu nước có tư tưởng tiến bộ , học nhiều nghề : Khai mỏ , hàng hải , nghề thuốc , cuối cùng quyết tâm làm văn nghệ vơí mong muốn cứu nước , cứu dân .
Lỗ Tấn chủ trương dùng ngòi bút để phanh phui căn bệnh tinh thần cho quốc dân với chủ đề “phê phán quốc dân tính” , nhằm làm thay đổi căn bệnh tinh thần cho nhân dân Trung Hoa .
b/ Sự nghiệp :
Lỗ Tấn đã để lại tác phẩm , được in thành 3 tập : Gào thét , Bàng Hoàng , Chuyện cũ viết theo lối mới .
Ông xứng đáng lànhà văn hiện thực xuất sắc của TQ , năm 1981 cả Thế giới kỉ niệm 100 năm sinh và tôn vinh ông là danh nhân văn hoá thế giới .
Câu 2 : Tóm tắt truyện “THUỐC” – Lỗ Tấn .Thuốc được đăng trên tạp chí Tân Thanh Niên số tháng 5 – 1919, sau đó in trong tập Gào Thét xuất bản 1923 .
Vợ chồng lão Hoa Thuyên – chủ quán trà có con trai bị bệnh lao(căn bệnh nan y thời bấy giờ) . Nhờ người giúp , lão Hoa Thuyên đi tìm mua chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù về cho con ăn , vì cho rằng như thế sẽ khỏi bệnh .  Lão Thuyên dành dụm tiền mua bánh bao tẩm máu người tử tù về cho con ăn
Sáng hôm sau ,trong quán trà mọi người bàn tán về cái chết của người tử tù vừa  bị chém sáng nay . Đó là Hạ Du , một nhà cách mạng kiên cường , nhưng chẳng ai hiểu gì về anh , nhiều người cho anh điên. Thế rồi , thằng Thuyên cũng chết vì chiếc bánh bao ấy không trị được bệnh lao.
Năm sau vào tiết Thanh minh  , mẹ Hạ Du và bà Hoa Thuyên đến bãi tha ma viếng mộ con . Gặp nhau , hai người mẹ đau khổ có sự đồng cảm với nhau  . Họ rất ngạc nhiên khi thấy trên  mộ Hạ Du xuất hiện vòng hoa trắng hồng xen lẫn nhau . Đây điểm sáng để kết thúc câu chuyện bi thảm , bày tỏ quyết tâm  tiếp bước người đã khuất .
            è Nội dung tác phẩm :    Phản ánh sự u mê của nhân dân TQ trước cách mạng Tân Hợi, sự lạc hậu về chính trị của quần chúng đối với người làm cách mạng và bi kịch của người cách mạng tiên phong Hạ Du
Câu 3 : Giải thích ý nghĩa  nhan đề truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn.
-Vạch trần sự u mê, lạc hậu,mê tín của người dân Trung Quốc tin rằng chiếc bánh bao tẩm máu người là một phương thuốc  chữa được bệnh lao .
-Thuốc còn là phương thuật giác ngộ quần chúng đấu tranh tự giải thoát khỏi hàng nghìn năm phong kiến đã đè nặng lên đời sống người dân TQ .
          Câu 4 : Trước khi trở thành nhà văn, Lỗ Tấn đã học những nghề nào? Tại sao cưối cùng ông chuyển sang làm văn nghệ ? Nêu tên 3 tác phẩm của ông.
            - Trước khi trở thành nhà văn Lỗ Tấn đã học những nghề : Hàng hải với ước mong mở rộng tầm mắt – học nghề khai thác mỏ với nguyện vọng làm giàu cho tổ quốc – học nghề y để chữa bệnh cho dân nghèo như bố ông.
- Đang học y khoa ở Tiên Đài (Nhật) ,ông đột ngột đổi nghề Vì : Một lần xem phim ,ông thấy người TQ khỏe mạnh hăm hở đi xem người Nhật chém người TQ làm gián điệp cho Nga ( chiến tranh Nga –Nhật), ông giật mình, nghĩ rằng chữa bệnh thể xác không bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân. Oâng chủ trương dùng ngòi bút để phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân và lưu ý mọi người tìm phương chữa trị .
             Câu 5 :Ý nghĩa bao trùm tác phẩm THUỐC – Lỗ Tấn.Hạ Du người cách mạng bị xử tử , là nhân vật trung tâm trong tác phẩm chỉ được nhắc qua  những mẫu đối thoại trong quán trà. Truyện phê phán tập quán chữa bệnh phản khoa học . Hình ảnh lão Hoa Thuyên “vội vàng móc gói bạc trong túi ra mua chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi,máu còn nhỏ tửng giọt,...”cho thấy sự mê tín của quần chúng và dã tâm của bọn đồ tể bán máu người.
- Hạ Du là người chiến sĩ  cách mạng đã hi sinh : Tác phẩm phê phán sự lạc hậu về chính trị của quần chúng  “ Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa ... nằm trong tù mà còn dám rủ lão đề lao làm giặc (... ) hắn điên thật rồi !”   

2. SỐ PHẬN CON NGƯỜI
(Sô-lô-khốp)
I.Tác giả:
- Sô-lô-khôp (1905-1984) là nhà văn Nga được liệt vào hàng các nhà văn lớn nhất TK XX.
- Quê quán: tỉnh Rôx-tôp trên vùng thảo nguyên sông Đông.
- Ông tham gia cách mạng khá sớm.
- Cuối năm 1922, ông dến Mát-xơ-va, làm nhiều nghề để kiếm sống. Thời gian rảnh, ông tự học và tự đọc văn học để tích luỹ kiến thức.
- Năm 1925, ông trở về quê và bắt đầu viết tiểu thuyết Sông Đông êm đềm.
- Năm 1939, ông được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô.
- Trong thời gian chiến tranh vệ quốc, với tư cách là phóng viên, ông xông pha trên nhiều mặt trận.
- Đề tài sáng tác: cuộc sống và con người vùng sông Đông sau cách mạng tháng Mười và trong thời kì nội chiến. Ông còn nổi tiếng khi viết về số phận con người sau chiến tranh.
- Năm 1965, ông vinh dự được nhận giải thưởng Nô-ben về văn học. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
II.Tác phẩm “Số phận con người”:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
- Truyện ngắn này được in lần đầu ở Liên Xô trên hai số báo “sự thật” ra ngày 31-12-1956 và ngày 1-1-1957. Chỉ trong vòng một tuần lễ ông đã viết xong tác phẩm vì ý đồ sáng tác đã được ấp ủ từ lâu.
- Tác phẩm thể hiện những tư tưởng và tình cảm lớn mà nhà văn nung nấu trong nhiều năm.
2. Tóm tắt tác phẩm:
- Người kể chuyện (tác giả) tình cờ gặp anh lái xe An-đrây Xô-cô-lốp và cậu bé Va-ni-a trên vùng sông Đông. An-đrây đã kể lại cho tác giả nghe về cuộc đời của mình:
Cả nhà anh chết trong một nạn đói năm 1922, chỉ mình anh làm thuê nên sống sót. Sau đó anh lấy vợ và có một tổ ấm gia đình.
Khi chiến tranh bùng nổ, Xô-cô-lốp lên đường ra mặt trận, chiến đấu được một năm thì bị bắt làm tù binh.
- Sau hai năm bị đày đoạ trong các trại tù binh của phát xít Đức, anh vượt trại tù, trở về với Hồng quân và tiếp tục chiến đấu. Thời gian sau, anh nhận được tin vợ và hai con gái của mình bị bom của quân Đức giết hại. Vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, bất hạnh lại ập đến với Xô-cô-lốp khi anh nhận được tin con trai của mình đã hi sinh. Niềm hi vọng cuối cùng tan vỡ.
- Chiến tranh kết thúc, vượt lên trên nỗi bất hạnh, Xô-cô-lốp đã nhận nuôi cậu bé mồ côi Va-ni-a với hi vọng hai tâm hồn cô đơn sẽ nương tựa vào nhau, sưởi ấm cho nhau để chiến thắng số phận.
3. Nội dung:
a. Số phận con người qua hình tượng Xô-cô-lốp:
- Xô-cô-lốp phải gánh chịu những mất mát tưởng như quá sức chịu đựng của con người.
- Chiến tranh kết thúc, người lính Xô Viết trở về với cuộc đời thường trong sự cô độc.
Xô-cô-lốp rơi vào tâm trạng đau đớn tột cùng.
- Tai hoạ không chỉ đến với gia đình Xô-cô-lốp, thảm cảnh của gia đình bế Va-ni-a cũng không thua kém.
- Trong cuộc sống thường, Xô-cô-lốp tiếp tục đối mặt với éo le, trắc trở (câu chuyện anh đụng phải con bò và bị tước bằng lái)
* Những đau thương, mất mát của Xô-cô-lốp, Va-ni-a không phải là cá biệt mà khá tiêu biểu cho những gì nhân dân Nga đã phải chịu đựng trong chiến tranh và sau chiến tranh.
b.Phẩm chất của người lính Nga Xô-cô-lốp:
- Tấm lòng nhân ái đã giúp con người vượt lên trên nỗi cô đơn, đồng thời xoa dịu nỗi đau của con người.
+ Xô-cô-lốp nhận Va-ni-a làm con nuôi để hai trái tim đau khổ sưởi ấm cho nhau.
+ Tấm lòng nhân hậu, tình thương mộc mạc, bộc trực dành cho Va-ni-a đã đem lại niềm vui cho anh.
- Xô-cô-lốp còn là một người có ý chí kiên cường cứng cỏi trong cuộc sống đời thường đầy khó khăn:
+ Anh cố nén đau thương, chịu đựng một mình để không làm u ám tâm hồn đứa trẻ.
+ Ban ngày anh bao giờ cũng trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài dù ban đêm gối đẫm nước mắt.
+ Con người có ý chí kiên cường đó sẽ vượt qua mọi thử thách trên con đường vươn tới hạnh phúc.
* Truyện đã khám phá và ca ngợi tính cách Nga: kiên cường và nhân hậu.
4. Nghệ thuật:
- Cách kể chuyện: truyện lồng trong truyện làm cho câu chuyện chân thật, sinh động, lôi cuốn người đọc.
- Lời trữ tình ngoại đề: thể hiện sự ngưỡng mộ và cảm thông của nhà văn.
- Khắc họa chân dung và theo dõi tâm trạng nhân vật.
- Chọn lọc chi tiết.
Câu hỏi:
1. Những đau đớn, mất mát mà Xô-cô-lốp và gia đình Va-ni-a phải gánh chịu? Qua đó Sô-lô-khốp nghĩ gì về số phận con người?
2. Tâm hồn ngây thơ và lòng nhân hậu của Xô-cô-lốp được biểu hiện như thế nào trong đoạn trích?
3. Tính cách Nga được bộc lộ như thế nào qua nhân vật Xô-cô-lốp?
4. Ý nghĩa của lời trữ tình ngoại đề ở cuối tác phẩm?
5. Nét mới của truyện ngắn “số phận con người” trong việc miêu tả cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô?
V. CÂU HỎI THAM KHẢO
Câu 1: Trình bày tóm tắt tiểu sử và sự nghiệp của Mikhaiin  Sôlôkhốp , sáng tác nổi tiếng nhất là tác phẩm nào ?
Sôlôkhốp sinh năm 1905 ở tỉnh Rôxtôp , vùng sông Đông nước Nga .
Nhà văn gắn bó máu thịt với con người và cảnh vât vùng đất sông Đông .
Sôlôkhốp trực tiếp tham gia nội chiến và chiến tranh vệ quốc
Ông là nhà văn nổi tiếng thế giới đã được nhận giải nô ben văn học .
Tác phẩm  nổi tiếng là bộ tiểu thuyết ‘’SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM’’.
Câu2: Trình bày tiểu sử và sự nghiệp của Mikhain Sôlôkhôp .
Mikhaiin SôlôKhôp là nhà văn Nga sinh năm 1905 , mất 1984 , xuất thân trong một gia đình nông dân vùng thảo nguyên cạnh sông Đông .
Ông rất gắn bó với con người và cảnh vật quê hương trong những bước chuyển mình đau đớn và phức tạp của lịch sử . Chính vì thế tác phẩm của ông thấm đẫm hơi thở và linh hồn của cuộc sống vùng sông Đông .
Sôlô Khốp là người trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại , ông thấu hiểu được những nỗi khổ đau và số phận con người trong cuộc chiến tranh . Chính điều này đã tạo ra một bước ngoặc trong các sáng tác của ông .
Sôlô Khôp được trao tặng giải thưởng nô ben về văn học năm 1965 .
*Sự nghiệp :
Sôlô Khôp  là nhà văn xuất sắc của nước Nga , ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị như : Những truyện ngắn sông Đông , Sông Đông êm đềm , Số phận con người , …….
Câu 3: Tóm tắt tác phẩm ‘’số phận con người ‘’ Sôlôkhốp .
Nhân vật chính trong tác phẩm là Xôcôlôp . Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ , Xôcôlôp  nhập ngũ rồi bị thương . Sau đó , anh bị đoạ đày trong trại giam của bọn phát xít . Khi thoát khỏi nhà tù ,anh nhận được tin vợ và con gái bị bom giặc sát hại . người con trai duy nhất của anh cũng đã nhập ngũ và đang cùng anh tiến về đánh Berlin . Nhưng đúng ngày chiến thắng , con trai anh đã bị kẻ thù bắn chết . Niềm hi vọng cuối cùng của anh tan vỡ .
Kết thúc chiến tranh , Xôcôlôp giải ngũ , làm lái xe cho một đội vận tải và ngẫu nhiên anh gặp được bé Vania . Cả bố mẹ em đều bị bắn chết trong chiến tranh , chú bé phải sống bơ vơ không nơi nương tựa . Anh Vania làm con nuôi và yêu thương, chăm sóc  chú bé thật chu đáo và coi đó là một nguồn vui lớn .
Tuy vậy , Xôcôlôp vẫn bị ám ảnh bởi những nỗi đau buồn vì mất vợ , mất con “nhiều đêm thức giấc gối ướt đẫm nước mắt”  anh thương thay đổi chỗ ở nhưng anh vẫn cố giấu không cho bé Vania biết nỗi khổ của mình .
            è Nội dung tác phẩm ‘’Số phận con người’’ : Số phận  con người nhỏ bé trước hiện thực tàn khốc của chiến tranh , vẻ đẹp tính cách Nga kiên cường nhân hậu .
Câu 4: Ý nghĩa bao trùm tác phẩm “SỐ PHẬN CON NGƯỜI”
- Nhân vật chính trong tác phẩm là Xôcôlôp  có cuộc đời gặp nhiều bất hạnh . Nhưng anh vẫn thể hiện được nét tính cách Nga kiên cường và nhân hậu :
            *  Tính cách kiên cường :
                        + Trong chiến tranh ,anh chịu quá nhiều bất hạnh . Sau chiến tranh, anh lại sống trong cô đơn, đau khổ, phiêu bạt nhiều nơi để kiếm sống . Nhưng anh vẫn không  thốt một lời than vãn, không suy sụp tinh thần,không sa ngã, không rơi vào bế tắc, tuyệt vọng.
                        + Với bản lĩnh cao đẹp, với tấm lòng nhân hậu thắm thiết, anh trở thành chỗ dựa vững chắc cho bé Vania ( bố mẹ đã chết trong chiến tranh).
Tấm lòng nhân hậu :
+ Xôcôlôp nhận nuôi béø Vania từ tính thương “Với niềm vui không lời tả xiết” không tính toán ,vụ lợi .
+ Yêu thương ,chăm sóc chu đáo cho Vania hơn cả người cha đối với con.
+ Những mất mát , đau thương ,anh âm thầm chịu đựng “nhiều đêm thức giấc thì gối ướt đẫm nước mắt”, không cho bé Vania biết, vì sợ em buồn .
               - Hai số phận bất hạnh đặt cạnh nhau ,đã kết hợp với nhau, biết nương tựa vào nhau để vươn lên và không ngừng hi vọng vào cuộc sống là phẩm chất tuyệt vời của những con người chân chính..

3. ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ
                                                                                 (Trích)
                                                                                                        Hê-minh-uê
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. O-nit Hê-minh-uê (1899- 1961):
+ Nhà văn Mĩ để lại dấu ấn sâu sắc trong văn xuôi hiện đại phương Tây và góp phần đổi mới lối viết truyện, tiểu thuyết của nhiều thế hệ nhà văn trên thế giới.
+ Những tiểu thuyết nổi tiễng của Hê-minh-uê: Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ  khí (1929), Chuông nguyện hồn ai (1940).
+ Truyện ngắn của Hê-minh-uê được đánh giá là những tác phẩm mang phong vị độc đáo hiếm thấy. Mục đích của nhà văn là "Viết một áng văn xuôi đơn giả và trung thực về con người".
2. Ông già và biển cả (The old man and the sea)
+ Được xuất bản lần đầu trên tạp chí Đời sống.
+ Tác phẩm gây tiếng vang lớn và hai năm sau Hê-minh-uê được trao giải Nô-ben.
+ Tóm tắt tác phẩm (SGK).
+ Tác phẩm tiêu biểu cho lối viết "Tảng băng trôi": dung lượng câu chữ ít nhưng "khoảng trống" được tác giả tạo ra nhiều, chúng có vai trò lớn trong việc tăng các lớp nghĩa cho văn bản (Tác giả nói rằng tác phẩm lẽ ra dài cả 1000 trang nhưng ông đã rút xuống chỉ còn bấy nhiêu thôi).
3. Đoạn trích
+ Đoạn trích nằm ở cuối truyện.
+ Đoạn trích kể về việc chinh phục con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-gô. Qua đó người đọc cảm nhận được nhiều tầng ý nghĩa đặc biệt là vẻ đẹp của con người trong việc theo đuổi ước mơ giản dị nhưng rất to lớn của đời mìnhvà ý nghĩa biểu tượng của hình tượng con cá kiếm.
II. TÌM HIỂU VĂN BẢN ĐOẠN TRÍCH
1. Hình ảnh ông lão và con cá kiếm
+ Xan-ti-a-gô là một ông già đánh cá ở vùng nhiệt lưu. Đã ba ngày hai đêm ông ra khơi đánh cá. Khung cảnh trời biển mênh mông chỉ một mình ông lão. Khi trò chuyện với mây nước, khi đuổi theo con cá lớn, khi đương đầu với đàn cá mập xông vào xâu xé con cá. Cuối cùng kiệt sức vào đến bờ con cá kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương. Câu chuyện đã mở ra nhiều tầng ý nghĩa . Một cuộc tìm kiếm con cá lớn nhất, đẹp nhất đời, hành trình nhọc nhằn dũng cảm của người lao động trong một xã hội vô hình, thể nghiệm về thành công và thất bại của người nghệ sĩ đơn độc khi theo đuổi ước mơ sáng tạo rồi trình bày nó trước mắt người đời...
+ Đoạn trích có hai hình tượng: ông lão và con cá kiếm. Hai hình tượng mang một vẻ đẹp song song tương đồng trong một tình huống căng thẳng đối lập:
- Con cá kiếm mắc câu bắt đầu những vòng lượn “vòng tròn rất lớn”, “con cá đã quay tròn”. Nhưng con cá vẫn chậm rãi lượn vòng”. Những vòng lượn được nhắc lại rất nhiều lần gợi ra được vẻ đẹp hùng dũng, ngoan cường của con cá trong cuộc chiến đấu ấy.
- Ông lão ở trong hoàn cảnh hoàn toàn đơn độc, “mệt thấu xương” “hoa mắt” vẫn kiên nhẫn vừa thông cảm với con cá vừa phải khuất phục nó.
-  Cuộc chiến đấu đã tới chặng cuối, hết sức căng thẳng nhưng cũng hết sức đẹp đẽ. Hai đối thủ đều dốc sức tấn công và dốc sức chống trả. Cảm thấy chóng mặt và choáng váng nhưng ông lão vẫn ngoan cường “Ta không thể tự chơi xỏ mình và chết trước một con cá như thế này được” lão nói. Ông lão cảm thấy “một cú quật đột ngột và cú nảy mạnh ở sợi dây mà lão đang níu bằng cả hai tay”. Lão hiểu con cá cũng đang ngoan cường chống trả. Lão biết con cá sẽ nhảy lên, lão mong cho điều đó đừng xảy ra “đừng nhảy, cá” lão nói, “đừng nhảy”, nhưng lão cũng hiểu “những cú nhảy để nó hít thở không khí”. Ông lão nương vào giớ chò “lượt tới nó lượn ra, ta sẽ nghỉ”. “Đến vòng thứ ba, lão lần đầu tiên thấy con cá”. Lão không thể tin nỗi độ dài của nó “ “không” lão nói, “Nó không thể lớn như thế được”. Những vòng lượn của con cá hẹp dần. Nó đã yếu đi nhưng nó vẫn không khuất phục, “lão nghĩ: “Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày”. Ông lão cũng đã rất mệt có thể đổ sụp xuống bất kì lúc nào. Nhưng ông lão luôn nhủ “mình sẽ cố thêm lần nữa”. Dồn hết mọi đau đớn và những gì còn lại của sức lực và lòng kiêu hãnh, lão mang ra để đương đầu với cơn hấp hối của con cá. Ông lão nhấc con ngọn lao phóng xuống sườn con cá “cảm thấy mũi sắt cắm phập vào, lão tì người lên ấn sâu rồi dồn hết trọng lực lên cán dao”. Đây là đòn đánh quyết định cuối cùng để tiêu diệt con cá. Lão rất tiếc khi phải giết nó, nhưng vẫn phải giết nó.
- “Khi ấy con cá, mang cái chết trong mình, sực tỉnh phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực của nó”. Cái chết của con cá cũng bộc lộ vẻ đẹp kiêu dũng hiếm thấy cả ông lão và con cá đều là kì phùng địch thủ. Họ xứng đáng là đối thủ của nhau.
- Nhà văn miêu tả vẻ đẹp của con cá cũng là để đề cao vẻ đẹp của con người. Đối tượng chinh phục càng cao cả, đẹp đẽ thì vẻ đẹp của con người đi chinh phục càng được tôn lên. Cuộc chiến đấu gian nan với biết bao thử thách đau đớn đã tôn vinh vẻ đẹp của người lao động: giản dị và ngoan cường thực hiện bằng được ước mơ của mình.
2. Nội dung tư tưởng của đoạn trích
Hình tượng con cá kiếm được phát biểu trực tiếp qua ngôn từ của người kể chuyện, đặc biệt là qua những lời trò chuyện của ông lão với con cá ta thấy ông lão coi nó như một con người. Chính thái độ đặc biệt, khác thường này đã biến con cá thành “nhân vật” chính thứ hai bên cạnh ông lão, ngang hàng với ông. Con cá kiếm mang ý nghĩa biểu tượng. Nó là đại diện cho hình ảnh thiên nhiên tiêu biểu cho vẻ đẹp , tính chất kiên hùng vĩ đại của tự nhiên. Trong mối quan hệ phức tạp của thiên nhiên với con người không phải lúc nào thiên nhiên cũng là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ. Con cá kiếm là biểu tượng của ước mơ vừa bình thường giản dị nhưng đồng thời cũng rất khác thường, cao cả mà con người ít nhất từng theo đuổi một lần trong đời.
3. Nghệ thuật đoạn trích
Đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện trong tác phẩm Ông già và biển cả của Hê-minh-uê có ngôn ngữ của người kể chuyện và ngôn ngữ trực tiếp của ông già được thể hiện bằng: “lão nghĩ.....”, “lão nói ....”
+ Ngôn ngữ  của người kể chuyện tường thuật khách quan sự việc.
+ Lời phát biểu trực tiếp của ông lão. Đây là ngôn từ trực tiếp của nhân vật. Có lúc nó là độc thoại nội tâm. Nhưng trong đoạn văn trích nó là đối thoại. Lời đối thoại hướng tới con cá kiếm:
“Đừng nhảy, cá”, lão nói. “Đừng nhảy”.
“Cá ơi”, ông lão nói “cá này, dẫu sao thì mày cũng sẽ chết. Mày muốn tao cùng chết nữa à?”
“Mày đừng giết tao, cá à, ông lão nghĩ “ mày có quyền làm thế”. “Tao chưa từng thấy bất kỳ ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ”.
+ Ý nghĩa của lời phát biểu trực tiếp:
- Đưa người đọc như đang trực tiếp chứng kiến sự việc.
- Hình thức đối thoại này chứng tỏ Xan-ti-a-gô coi con cá kiếm như một con người.
- Nội dung đối thoại cho thấy ông lão chiêm ngưỡng nó thông cảm với nó và cảm thấy nuối tiếc khi tiêu diệt nó.
- Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên
- Ý nghĩa biểu tượng của con cá kiếm
- Vẻ đẹp của con người trong hành trình theo đuổi và đạt được ước mơ của mình.
 III. TỔNG KẾT
Đoạn văn tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của Hê-minh-uê: luôn đặt con người đơn độc trước thử thách. Con người phải vượt qua thử thách vượt qua giới hạn của chính mình để luôn vươn tới đạt được mước mơ khát vọng của mình. Hai hình tượng ông lão và con cá kiếm đều mang ý nghĩa biểu tượng gợi ra nhiều tầng nghĩa của tác phẩm. Đoạn văn tiêu biểu cho nguyên lý “Tảng băng trôi “ của Hê-minh-uê.
IV. CÂU HỎI THAM KHẢO
Câu 1: Trình bày vắn tắt cuộc đời và sự nghiệp HÊ-MINH-UÊ
            a/ Cuộc đời :
Hê-minh-uê là nhà văn , sinh năm 1899 mất năm 1961,sinh trưởng trong một gia đình trí thức khá giả , là người từng đoạt giải Nobel về văn học.
Ông yêu thích thiên nhiên hoang dại, thích phiêu lưu mạo hiểm ,sống giản dị, gần gũi quần chúng và từng tham gia nhiều cuộc chiến tranh.
Hê-minh-uê có một cuộc đời đầy sóng gió , một cây bút xông xáo không mệt mỏi .Ông là ngưòi đề xướng ra nguyên  lí “ Tảng băng trôi”  (Đại thể là nhà văn không trực tiếp phát ngôn cho ý tưởng của mình mà xây dựng hình tượng  có nhiều sức gợi để người đọc có thể rút ra phần ẩn  ý ).
          b/ Sự nghiệp :
            Sự nghiệp văn chương của ông khá đồ sộ , trong đó có những tác phẩm tiêu biểu : Giã từ vũ khí , Ông già và biển cả , Chuông nguyện hồn ai , ...
Câu 2 : Tóm tắt tác phẩm “Ông gìa và biển cả” –Hê-minh-uê .
Ông già Xan-ti-a-gô đánh cá ở vùng nhiệt lưu , nhưng đã lâu không kiếm được con cá nào  . Đêm ngủ ông mơ về thời trai trẻ với tiếng sóng gào , hương vị biển , những con tàu , những đàn sư tử . Thả mồi ông đối thoại với chim trời , cá biển .
Thế rồi , một con cá lớn tính khí kì quặc mắc mồi . Đây là một con cá Kiếm to lớn , mà ông hằng mong ước . Sau cuộc vật lộn cực kỳ căng thẳng và nguy hiểm, Xanchiagô giết được con cá .
Nhưng lúc ông già quay vào bờ , từng đàn cá mập hung dữ đuổi theo rỉa thịt con cá Kiếm . Ông  phải đơn độc chiến đấu đến kiệt sức với lũ cá mập . Tuy vậy , ông vẫn nghĩ “ không ai cô đơn nơi biển cả” . Khi ông già mệt rả rời quay vào bờ thì con cá Kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương .Câu 3 : Em hiểu như thế nào về nguyên lí  “Tảng băng trôi”
Hêminguê lấy hình ảnh tảng băng trôi phần nổi ít ,phần chìm nhiều đặt ra yêu cầu đối với tác phẩm văn chương phải tạo ra “ ý tại ngôn ngoại”  . Nhà văn không trực tiếp công khai phát ngôn cho ý tưởng của mình mà xây dựng hình tượng có nhiều sức gợi để người đọc tự rút ra phần ẩn ý . một trong những biện pháp chủ yếu thể hiện nguyên lí “Tảng băng trôi” là độc thoại nội tâm kết hợp dùng ẩn dụ, biểu tượng.
I. LÀM VĂN:
1. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG ĐẠO LÝ

I. Dàn ý bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
1. Mở bài:     - Giới thiệu
- Nêu tư tưởng, đạo lí cần nghị luận
2. Thân bài
-Luận điểm 1: Giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lí (Bằng cách giải thích các từ ngữ, các khái niệm..)
- Luận điểm 2: Phân tích các mặt đúng của tư tưởng đạo lí (Dùng dẫn chứng từ cuộc sống và văn học để chứng minh)
- Luận điểm 3: Bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng đạo lí (Dùng dẫn chứng từ cuộc sống và văn học để chứng minh)
- Luận điểm 4: Đánh giá ý nghĩa tư tưởng đạo lí đã nghị luận.
3. Kết bài:     - Khái quát lại vẫn đề cần nghị luận.
- Nêu ý nghĩa và rút ra bài học nhận thức từ tư tưởng đạo lí đã nghị luận
II. Đề bài tham khảo
Đề:  Nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi nói: “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”.
Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lý tưởng và lý tưởng riêng của mình.
Tìm hiểu đề:
- Nội dung: Suy nghĩ về vai trò của lý tưởng nói chung đối với mọi người và lý tưởng riêng của mình.
+ Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường; không có lý tưởng thì không có cuộc sống.
+ Nâng vai trò của lý tưởng lên tầm cao ý nghĩa của cuộc sống.
+ Giải thích mối quan hệ lý tưởng và ngọn đèn, phương hướng và cuộc sống.
- Phương pháp nghị luận: Phân tích, giải thích, bình luận, chứng minh.
- Phạm vi tư liệu: Cuộc sống.
Lập dàn ý:
a. Mở bài:
Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề tư tưởng, đạo lý cần nghị luận.
b. Thân bài: (gợi ý)
- Lý tưởng là gì? Tại sao nói lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường? Ngọn đèn chỉ đường là gì? Nó quan trọng như thế nào?
(Lý tưởng giúp cho con người không đi lạc đường. Khả năng lạc đường trước cuộc đời là rất lớn nếu không có lý tưởng tốt đẹp.)
- Lý tưởng và ý nghĩa cuộc sống:
Lý tưởng xấu có thể làm hại cuộc đời của một người và nhiều người. Không có lý tưởng thì không có cuộc sống.
- Lý tưởng tốt đẹp , thực sự có vai trò chỉ đường.
- Lý tưởng riêng của mỗi người.
Vấn đề bức thiết đặt ra cho mỗi học sinh tốt nghiệp THPT là chọn ngành nghề, một ngưỡng cửa để bước vào thực hiện lý tưởng.
c. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề.
- Nêu ý nghĩa và rút ra bài học nhận thức từ tư tưởng đạo lí đã nghị luận.

2. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG

I. Dàn ý bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
1. Mở bài: Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận
2. Thân bài
- Luận điểm 1: Nêu rõ hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Luận điểm 2: Phân tích các mặt đúng - sai, lợi - hại của hiện tượng đời sống đang nghị luận (Dùng dẫn chứng từ cuộc sống để chứng minh)
- Luận điểm 3: Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đời sống trên ( Dùng dẫn chứng từ cuộc sống để chứng minh)
- Luận điểm 4: Đánh giá hiện tượng đời sống đang nghị luận
3. Kết bài:     - Khái quát lại vấn đề đang nghị luận.
- Bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống đang nghị luận
II. Đề tham khảo
Đề: Anh (chị), hãy trình bày quan điểm của mình trước cuộc vận động “Nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”.
1. Tìm hiểu đề.
- Nội dung bình luận: hiện tượng tiêu cực trong thi cử hiện nay.
- Kiểu bài:nghị luận xã hội với các thao tác bình luận, chứng minh…
- Tư liệu: trong đời sống xã hội.
2. Lập dàn ý (gợi ý)
a) Mở bài.
Nêu hiện tượng, trích dẫn đề, phát biểu nhận định chung…
b) Thân bài.
- Phân tích hiện tượng.
+ Hiện tượng tiêu cực trong thi cử trong nhà trường hiện nay là một hiện tượng xấu cần xoá bỏ, nó làm cho học sinh ỷ lại, không tự phát huy năng lực học tập của mình…
+ Hiện tượng lấy tỉ lệ để nâng thành tích của nhà trường.
+ Hãy nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.
- Bình luận về hiện tượng.
+ Đánh giá chung về hiện tượng.
+ Phê phán các biểu hiện sai trái:
. Thái độ học tập gian lận.
. Phê phán hành vi cố tình vi phạm, làm mất tính công bằng của các kì thi.
c) Kết bài.
- Kêu gọi học sinh có thái độ đúng đắn trong thi cử.
- Phê phán bệnh thành tích trong giáo dục.


TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG                    ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT
        PHAN CHÂU TRINH                      Năm học 2008 - 2009
------***------                                     Môn: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 150 phút
(Không kể thời gian giao đề)

I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH: (5,0 điểm)
Câu I. (2,0 điểm)
Anh ( chị ) hãy tóm tắt truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn.
Câu II. (3,0 điểm)
Hiện nay ở nước ta có nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức thu nhận trẻ em cơ nhỡ, lang thang kiếm sống trong các thành phố, thị trấn về những mái ấm tình thương để nuôi dạy, giúp các em học tập, rèn luyện, vươn lên sống lành mạnh, tốt đẹp.
Anh (chị) hãy bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng đó.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó (câu III.a, hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh hoặc chị về nhân vật tôi trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
          Anh (chị) hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Đàn ghita của Lor-ca của Thanh Thảo:

những tiếng đàn bọt nư­ớc
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la  li-la  li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn

Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như­ ngư­ời mộng  du

tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nư­ớc vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
                                  (Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, NXB Giáo duc, 2008, tr.132)

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
   PHAN CHÂU TRINH
        ------***------
HƯỚNG DẪN CHẤM THI TỐT NGHIỆP THPT
Năm học 2008 - 2009
Môn: Ngữ văn
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 điểm)
Câu I. (2,0 điểm)
a. Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau, song cần nêu được các ý chính sau:
- Vợ chồng Hoa Thuyên- chủ một quán trà nghèo- có đứa con trai độc nhất mắc bệnh lao nặng. Nhờ có người mách bảo, vào một đêm thu lúc trời chưa sáng hẳn, Lão Hoa Thuyên tìm tới pháp trường để mua chiếc bánh bao tẩm máu người vừa chịu án chém về cho con ăn vì cho rằng ăn như thế con sẽ khỏi bệnh.
- Vợ chồng Hoa Thuyên cho bé Thuyên ăn thuốc. Thằng bé thật tiều tuỵ, đáng thương. Vợ chồng Hoa Thuyên đặt hết niềm tin tưởng vào sự hiệu nghiệm của phương thuốc này.
- Trời vừa sáng, lúc bé Thuyên ăn thuốc xong, quán trà nhà lão Hoa Thuyên dần đông khách. Câu chuyện của bọn họ xoay quanh hai sự việc. Sự việc thứ nhất là tất thảy bọn họ đều tin tưởng vào công hiệu của phương thuốc bánh bao tẩm máu tươi mà thằng bé vừa ăn . Sự việc thứ hai là chuyện bàn tán về người tù bị chém sáng nay. Qua lời của Cả Khang thì người bị chém tên là Hạ Du. Hạ Du theo đuổi lí tưởng đánh đổ nhà Mãn Thanh, giành độc lập, chủ quyền cho người Trung Quốc (Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta). Hạ Du bị người bà con tố giác và bị bắt. Trong tù Hạ Du vẫn tuyên truyền tư tưởng cách mạng. Tuy nhiên, tất cả những người có mặt trong quán trà hôm đó không một ai hiểu đúng về Hạ Du. Bọn họ cho Hạ Du là điên, là giặc.
- Vào một buổi sáng của ngày Thanh minh năm sau, mẹ Hạ Du và bà Hoa Thuyên cùng đến nghĩa địa ( dành cho người nghèo, người tù và người bị chém) viếng mộ con. Hai người mẹ đau khổ bước đầu có sự đồng cảm . Họ rất ngạc nhiên khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa. Mẹ Hạ Du đã bắt đầu hiểu ra việc làm của con bà và tin tưởng những kẻ giết hại Hạ Du nhất định sẽ bị quả báo.
b. Cách cho điểm:
- Điểm 2: Đáp ứng các yêu cầu trên, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 1: Trình bày được một nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 0: Hoàn toàn sai lạc.
Câu II. (3,0 điểm)
a. Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội; kết cấu bài văn chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b.Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể đưa ra những ý kiến riêng, quan trọng là cách hiểu và cách bàn luận phải xuất phát từ hiện tượng đề bài yêu cầu nghị luận, phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Cần tổ chức bài làm theo định hướng sau:
        - Thực trạng trẻ em lang thang cơ nhỡ: Trẻ em lang thang, cơ nhỡ đang là vấn đề cần được toàn xã hội quan tâm. Bởi vì hiện nay vẫn còn rất nhiều trẻ em không nơi nương tựa, điều này ảnh hưởng tới sự phát triển chung của đất nước.
      - Nguyên nhân: Do đói nghèo, do tổn thương tình cảm ( bị gia đình ruồng bỏ, từ chối hoặc đánh đập ),  do mồ côi hoặc các trường hợp bố mẹ li hôn.
- Hiện nay, những " mái ấm tình thương" đang xuất hiện ngày càng nhiều ở nước ta. Điều này không chỉ có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa kinh tế mà quan trọng hơn là giúp cho các em hướng thiện, đưa các em đi đúng với quỹ đạo phát triển tích cực của xã hội. Đây là tình cảm tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách... biểu hiện của truyền thống nhân đạo ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam.
- Giới thiệu một vài điển hình: Tổ chức  ( Làng trẻ em SOS, Làng trẻ em Hòa Bình ( Từ Dũ), Chùa Bồ Đề (Huế)...); cá nhân ( Mẹ Phạm Ngọc Oanh (Hà Nội) với 800 đứa con tình thương; Anh Phạm Việt Tuấn với mái ấm KOTO ( Hà Nội )...)
- Quan điểm và biện pháp nhân rộng
+ Quan điểm: Có cái nhìn đúng đắn về hiện tượng trẻ em lang thang cơ nhỡ từ đó nâng cao tình cảm và trách nhiệm đối với hiện tượng ấy. Lên án và kịp thời phát hiện, tố cáo những kẻ bóc lột sức lao động và xâm hại trẻ em.
+ Biện pháp nhân rộng:  Dùng biện pháp tuyên truyền, kêu gọi các cá nhân, tổ chức, quyên góp tiền cho các hoạt động từ thiện, thành lập đội thanh niên tình nguyện...
c. Cách cho điểm:
- Điểm 3: Đáp ứng các yêu cầu trên, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 2: Trình bày được một nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 1: Nội dung sơ sài, diễn đạt yếu.
- Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)
Câu III.a. Theo chương trình chuẩn (5,0 điểm)
a. Yêu cầu về kỹ năng:            
Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, vận dụng khả năng đọc- hiểu để  trình bày cảm nhận về nhân vật trong tác phẩm kí. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kíên thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về Hoàng Phủ Ngọc Tường và tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông, thí sinh biết cảm nhận được vốn tri thức, vốn văn hoá và tình cảm với Huế của nhân vật tôi. Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau song cần nêu bật những ý chính sau:
Nhân vật tôi trong tác phẩm là một trí thức gắn bó và say đắm sông Hương với kinh thành Huế. Nhân vật đã huy động vốn kiến thức tổng hợp về địa lí, lịch sử, văn hoá,...trong và ngoài nước để miêu tả và cảm nhận những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông.
- Nhân vật tôi nhìn dòng sông từ nhiều điểm nhìn khác nhau: thượng nguồn, trong kinh thành Huế, ra ngoại vi thành phố; từ góc độ địa lí, văn hoá, lịch sử,...kết hợp đan xen điểm nhìn không gian và thời gian...
- Giọng điệu của nhân vật là giọng thủ thỉ, tâm tình, say đắm mà tỉnh táo, tự tin mà không áp đặt, sắc sảo mà giàu cảm xúc.
c. Cách cho điểm:
- Điểm 5: Đáp ứng được yêu cầu trên, có thể mắc vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 3: Trình bày được một nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 1: Bài viết quá sơ sài, diễn đạt yếu.
- Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
a. Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài nghị luận văn học, vận dụng khả năng đọc - hiểu để phân tích tác phẩm trữ tình; kết cấu bài văn chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở hiểu biết về Thanh Thảo và bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca, thí sinh biết phân tích những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu để làm nổi bật vẻ đẹp bi tráng của hình tượng Lor-ca. Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần nêu được những ý cơ bản sau:
- Hình ảnh người nghệ sĩ Lor-ca: con người tự do, nghệ sĩ cách tân trong khung cảnh chính trị, văn hoá nghệ thuật Tây Ban Nha.
+ Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên hình tượng một nhà nghệ sĩ Lor-ca bằng những nét chấm phá, phần nào chịu ảnh hưởng của trường phái ấn tượng.
+ Chi tiết “tiếng đàn bọt nước”: nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: thính giác sang thị giác và thủ pháp lạ hóa tạo nên sức hấp dẫn kỳ lạ của tiếng đàn Lor-ca.
+ Hình ảnh tương phản gay gắt:  gợi cảnh đấu trường giữa khát vọng dân chủ với nền chính trị độc tài, giữa khát vọng cách tân nghệ thuật với nền nghệ thuật già nua.
+“Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” . Đây là hình ảnh vừa thực vừa tượng trưng: đấu trường quyết liệt, nơi người nghệ sĩ đương đầu với những thế lực tàn bạo, hà khắc.
+ Nhạc  thơ li-a li-a ... Nghệ thuật láy âm “li-la li-la li-la”  gợi hợp âm của tiếng đàn ghi ta, gợi hình ảnh bông hoa buồn của phút chia ly, gợi chuyến đi thăm thẳm và đơn độc của người nghệ sĩ.
+ Từ ngữ “lang thang, miền đơn độc, yên ngựa mỏi mòn, vầng trăng chuếnh choáng” gợi lên cuộc hành trình đơn độc của người nghệ sĩ đang tranh đấu cho tự do và cái mới.
- Cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca, khát vọng cách tân nghệ thuật đành dang dở.
+ Tập trung thể hiện giây phút Lor-ca "bị điệu về bãi bắn" và cực tả nỗi đau đớn, xót xa trước cái chết của người nghệ sĩ. Thủ pháp đối lập, các biện pháp so sánh, nhân hóa, điệp ngữ được sử dụng triệt để nhằm khắc họa đậm nét ấn tượng về sự "kinh hoàng", nỗi đau đớn tột cùng của nhà thơ.
·        chi tiết “Tây Ban Nha/ hát nghêu ngao”,
·        từ ngữ “kinh hoàng”, hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ”,
·        hình ảnh “Lor-ca bị điệu về bãi bắn/ chàng đi như người mộng du”
Thật bất ngờ, hồi tưởng lại cảnh tượng thảm khốc ấy, Thanh Thảo lại như nghe và cảm nhận thấy âm thanh tiếng ghi ta trên chặng đường lãng du của Lor-ca.
+ Từ ngữ chuyển đổi cảm giác “nâu, lá xanh, tròn bọt nước vỡ tan, ròng ròng /máu chảy”
+ Những điệp khúc tạo hình âm nhạc bằng chính nhịp điệu, và bằng hình ảnh (bọt nước, tròn bọt nước vỡ tan, ròng ròng, máu chảy) bằng màu sắc (nâu, xanh biết mấy), bằng liên tưởng (Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt, bầu trời cô gái ấy….). Sự kết hợp ngẫu hứng từ ngữ cũng là sự kết hợp mang tính chất âm nhạc. Đặc biệt, khi tiếng ghita ròng ròng máu chảy, âm nhạc đã thành thân phận: nó là tiếng van vỉ than khóc của trái tim tử thương trong thơ Lor-ca, nó là chính định mệnh nghiệt ngã với Lorca.
  - Đánh giá: Với nghệ thuật đặc sắc, đoạn thơ thể hiện sự đồng cảm, tiếc thương sâu sắc của tác giả đối với Lor-ca, người nghệ sĩ tài hoa có số phận bi tráng của đất nước Tây Ban Nha.
c) Cách cho điểm:
-Điểm 5: Đáp ứng được yêu cầu trên, có thể mắc vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
-Điểm 3: Trình bày được một nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
-Điểm 1: Phân tích quá sơ sài, diễn đạt yếu.
-Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.